Phần I: Địa lý (Chương X)

Chương X: HÀ NAM TỪ THẾ KỶ X ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX (NĂM 1858)

I. CƯƠNG VỰC HÀ NAM THẾ KỶ X - XIX

Trong lịch sử Việt Nam, thế kỷ X, là một “thế kỷ bản lề”: với việc kết thúc một thời kỳ đấu tranh nghìn năm chống Bắc thuộc để chuyển sang một kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên Đại Việt. Vào năm 905, Khúc Thừa Dụ - người Hồng Châu (Hải Dương) đã lãnh đạo nhân dân giành lấy chính quyền. Khúc Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ, xây dựng một chính quyền tự chủ của người Việt. Năm 907, Khúc Hạo thay cha lãnh đạo đất nước, tiến hành nhiều cải cách trên các mặt hành chính, kinh tế...(1). Chính những cải cách này cùng việc thi hành chính sách “khoan giản an lạc ”, khiến cho đất nước được thanh bình, nhân dân yên vui. Sau đó, Dương Đình Nghệ một bộ tướng của họ Khúc lãnh đạo cuộc kháng chiến chống ách đô hộ phương Bắc thành công, tiếp tục xưng Tiết độ sứ từ năm 931 đến 937. Năm 938, Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng; năm 939, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô tại Cổ Loa, chưa định quốc hiệu và phân bố lãnh vực.

(1) Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược. Tân Việt: Sài Gòn: 1958. tr.71

Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp yên được 12 sứ quân, lên ngôi hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư; chia nước làm 10 đạo, hiện chưa rõ danh hiệu và vị trí ra sao, chỉ biết rằng tên gọi các châu đời Đường vẫn xuất hiện trên sách sử cũ. Vương triều Tiền Lê với chiến công phá Tống bình Chiêm, cùng những thành tựu kinh tế, chính trị, văn hoá đã đóng góp vào việc củng cố và giữ vững nền độc lập thống nhất của Đại Cồ Việt ở thế kỷ X. Vừa lên ngôi, Lê Đại Hành đổi 10 đạo làm lộ, phủ, châu, nhưng cũng như thời Đinh, các nhà nghiên cứu vẫn chưa tìm được hết tên gọi cùng vị trí những đơn vị hành chính đó. Năm 1005, Lê Long Đĩnh kế vị, nhưng sự sa đọa và bạo ngược của ông vua này mà sử chép là Ngọa triều (do quá ham mê tửu sắc), đã khiến dân chúng cùng quần thần oán thán. Năm 1009, Long Đĩnh chết, triều đình suy tôn võ tướng giữ chức Điện tiền Chỉ huy sứ là Lý Công Uẩn (một người dòng họ khác Lê) lên làm vua và lập ra triều Lý (1010-1225). Kế thừa di sản của các triều đại trước mà cụ thể là triều Tiền Lê, ông vua khai sáng triều Lý đã chủ động xây dựng đất nước trên một quy mô tương đối hoàn chỉnh.

Việc đầu tiên Lý Công Uẩn thực hiện khi nắm vương quyền là dời đô từ Hoa Lư về Đại La, mục đích là do: “Thành Hoa Lư ẩm thấp chật hẹp, không đủ làm chỗ của đế vương”, mặt khác: “Thành Đại La, đô cũ của Cao vương (tức Cao Biền), ở giữa khu vực trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước... Xem khắp nước Việt ta đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng sư kinh đô mãi mãi muôn đời”(1). Sau khi tham bác ý kiến của quần thần, mùa thu năm Canh Tuất (1010), Lý Thái tổ thực hiện cuộc dời đô mang ý nghĩa lịch sử trong tiến trình phát triển của nước Việt. Khi đoàn thuyền ngự đến Đại La: “Thuyền tạm đỗ ở dưới thành, có rồng vàng hiện ra ở thuyền ngự, vì thế đổi gọi là thành Thăng Long”(2)

(1)Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, in lần thứ hai. NXB Khoa học xã hội, H. 1972, tr 190-191.

(2)Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, in lần thứ hai. NXB Khoa học xã hội, H. 1972, tr 191.

Sau đó, Thăng Long được xây dựng với một kiến trúc bề thế, có cung điện, thành luỹ, đền chùa và tiến hành mở mang thêm các phố phường, làng nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp. Thăng Long mau chóng trở thành trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của cả nước. Năm 1054, Lý Thánh Tông đổi tên nước là Đại Việt.

Nhằm củng cố và kiện toàn bộ máy nhà nước, Lý Thái Tổ cho chia lại khu vực hành chính, đổi 10 đạo thành 24 lộ và phủ, dưới là châu, hương, giáp, thôn; tại kinh đô có các phường.

Vào thế kỷ XI, vùng đất Hà Nam hiện nay gồm phủ Lỵ Nhân và một phần đất của lộ Hoàng Giang. Phủ Lỵ (hoặc Lợi) Nhân đời Lý bao gồm đất huyện Duy Tiên, huyện Kim Bảng (1), huyện Thanh Liêm, Duy Tiên, Lý Nhân và thị xã Phủ Lý ngày nay. Riêng huyện Bình Lục nằm trong địa phận lộ Hoàng Giang.

(1) Đại Nam nhất thống chí. TIII; NXB Khoa học xã hội; H, 1971; tra 16: “Huyện Kim Bảng, từ đời Trần trở về trước gọi là Cảo Bảng”.

Năm 1225, sau cuộc chuyển giao vương quyền êm thấm dưới hình thức xuất phát từ một cuộc hôn nhân, triều Trần được xác lập. Các vua triều Trần bắt tay ngay vào việc củng cố và bảo vệ vững chắc chính quyền của dòng họ, xây dựng bộ máy quản lý nhà nước. Tất cả những chức vị quan trọng đều do tôn thất họ Trần nắm giữ. Các vương hầu triều Trần, được phái đi trấn trị tại các địa phương, được phong thái ấp, có phủ đệ riêng. Nhằm không để vương quyền rơi vào tay dòng họ khác, nhà Trần thực hiện việc kết hôn đồng tộc. Đồng thời còn áp dụng chế độ Thượng hoàng để ngăn chặn nạn cướp ngôi đã từng xảy ra trong các triều đại trước và tập dượt để các vua trẻ có thể đảm đương được trọng trách (1).

(1) Nguyễn Hữu Tâm: Chế độ Thượng Hoàng với vương triều Trần. Đăng trong: Thời Trần và Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn trên quê hương Nam Hà; Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Sở văn hoá thông tin Nam Hà; 1996, tr. 36-41.

Vương triều Trần đã tổ chức lại hệ thống hành chính trong cả nước. Năm 1242, Trần Thái Tông đổi 24 lộ thời nhà Lý thành 12 lộ. Ngoài ra, triều Trần còn lập thêm các phủ, châu, trấn, như: Tân Bình (vùng Quảng Bình), Nghệ An, Thái Nguyên... Cấp chính quyền cơ sở thấp nhất trong hệ thống hành chính cấp địa phương đời Trần là hương, xã, sách.

Hà Nam đời Trần thuộc châu Lỵ Nhân của lộ Đông Đô. Châu Lỵ Nhân quản lãnh 6 huyện là: Thanh Liêm, Bình Lục, Cổ Bảng, Cổ Giả, Cổ Lễ và Lỵ Nhân(2). Gần đây, trong quá trình điều tra, sưu tầm đã phát hiện tấm bia đá tại chùa Dầu, xã Đinh Xá (huyện Bình Lục) được khắc vào niên hiệu Đại Trị (1358-1369). Nội dung tấm bia, đã bổ sung thêm một tên lộ còn thiếu trong các sách sử: đó là lộ Lợi Nhân(3).

(2) Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời. NXB Khoa học xã hội: H. 1964; tr. 96.

(3) Mai Khánh: Tấm bia ở chùa Dầu một hiện vật quý. Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1999. NXB Khoa học xã hội; H.2000. tr.533-536. Xem thêm: Hồ Đức Thọ: Bước đầu tìm hiểu mảnh đất – con người thời Trần ở Nam Hà. Sđd. Thời Trần và Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn trên quê hương Nam Hà; Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Sở Văn hoá thông tin Nam Hà; 1996, tr. 102-115.

Vào cuối thế kỷ XIV, khi các vua Trần tỏ ra bất lực trước những khủng hoảng xã hội, Hồ Quý Ly một ngoại thích đã tìm mọi cách thâu tóm quyền hành, tiến hành nhiều cuộc thanh trừng, gạt bỏ những thế lực chống đối. Đồng thời, ông cũng lợi dụng danh nghĩa triều Trần để thực hiện hàng loạt cải cách quan trọng trong đường lối trị nước, chuẩn bị cho việc phế bỏ triều Trần lập triều Hồ sau này.

Năm 1397, với chức vụ Nhập nội Thái sư bình chương quân quốc trọng sự, Tuyên trung vệ quốc đại vương, tự xưng là Phụ chính, Hồ Quý Ly tiến hành việc thay đổi một số đơn vị hành chính. Tháng 4 mùa hạ năm 1397, bắt đầu đổi gọi các phủ, lộ ra làm trấn.

Vào cuối đời Trần đầu đời Hồ, vùng Hà Nam hiện nay thuộc về châu Lỵ Nhân (Lợi Nhân) thuộc lộ Đông Đô, đã có một giai đoạn vào gần cuối đời Trần, châu Lỵ Nhân được nâng cấp lên thành lộ Lợi Nhân. Lộ Lợi Nhân hay châu Lợi Nhân bao gồm các huyện Thanh Liêm, Bình Lục, Cổ Bảng, Cổ Giả, Cổ Lễ, Lỵ Nhân, tức là diện tích của lộ Lợi Nhân tương đương với phần lớn tỉnh Hà Nam ngày nay.

Chính quyền triều Hồ (1400 - 1407) tồn tại không được bao lâu, thì Đại Việt lại trở thành đối tượng xâm lược của nhà nước phong kiến phương Bắc. Triều Minh (1368 - 1644), với vua Minh Thành Tổ hiếu chiến đã lợi dụng danh nghĩa “phù Trần diệt Hồ” để đem quân xâm lược nước ta. Mặc dù triều Hồ đã kiên trì tổ chức kháng chiến chống Minh, một bộ phận nhân dân dưới sự lãnh đạo của tướng lĩnh triều Hồ chiến đấu rất anh dũng, quyết liệt, nhưng do chưa tập hợp, đoàn kết được lực lượng, nên cuối cùng cuộc kháng chiến của quân dân triều Hồ và một số cuộc khởi nghĩa khác đều bị thất bại. Nước Đại Việt rơi vào ách nô dịch của triều Minh. Sau khi chiếm được Đông Đô, năm 1407, triều Minh lập tức đổi Giao Châu làm quận Giao Chỉ, chính thức đưa nước ta theo chế độ quận huyện của chính quốc. Dưới cấp quận, triều Minh chia đặt các phủ, châu, huyện. Năm 1407, chúng chia nước ta thành 15 phủ gồm 36 châu, 181 huyện; ngoài ra còn có 5 châu trực thuộc quận.

Tiếp theo, triều Minh tổ chức lại các làng xã của Giao Chỉ theo như cơ cấu hành chính nông thôn Trung Hoa đương thời, lập thành các lý và giáp. Riêng tại kinh thành Đông Đô, triều Minh lập thành phường và hương. Hà Nam thời thuộc Minh vẫn thuộc châu Lợi Nhân, nhưng cũng có một số thay đổi trong các huyện. Huyện Thanh Liêm, từ đời Trần trở về trước gọi là Thanh Liêm, năm Vĩnh Lạc thứ 6 (1408), bỏ huyện Thanh Liêm của châu Lỵ Nhân, giao cho châu Lỵ Nhân quản lãnh, lệ vào phủ Giao Châu. Huyện Bình Lục, từ đời Trần trở về trước vẫn tồn tại tên huyện, đến thời thuộc Minh do châu Lỵ Nhân quản lãnh, lệ vào phủ Giao Châu. Huyện Kim Bảng, đời Trần trở về trước gọi là Cổ Bảng (1), thời thuộc Minh giống như các huyện Bình Lục, Lý Nhân đều do châu Lỵ Nhân quan lãnh, lệ vào phủ Giao Châu. Huyện Cổ Giả, theo Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư, tháng 8, năm Vĩnh Lạc thứ 13 (1415) bị gộp vào huyện Lỵ Nhân. Vào tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 13 (1415), huyện Cổ Lễ cũng bị gộp vào châu Lỵ Nhân. Vào tháng 9 năm Vĩnh Lạc thứ 17 (1419), huyện Lỵ Nhân bị gộp vào châu Lỵ Nhân. Các huyện Cổ Giả, Cổ Lễ có thể là một phần đất huyện Duy Tiên và Nam Xang sau này(2). Cổ Giả sau sáp nhập vào Lợi Nhân, nay là Duy Tiên, Cổ Lễ, sau sáp nhập vào Lợi Nhân)(3).

(1) Đặng Xuân Bảng: Sử học bị khảo. Viện Sử học: H; 1997. tr.381.

(2) Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, tr.100. Xem thêm: Hồ Đức Thọ: Bước đầu tìm hiểu mảnh đất - con người thời Trần ở Nam Hà. Sđd. Thời Trần và Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn trên quê hương Nam Hà; Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Sở Văn hoá thông tin Nam Hà; 1996, tr 102-115.

(3) Đặng Xuân Bảng: Sử học bị khảo. Viện Sử học: H; 1997. tr.381.

Sau hơn mười năm chiến đấu kiên trì và gian khổ, cuối cùng cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã hoàn toàn thắng lợi, quân xâm lược Minh phải rút lui về nước. Quốc gia Đại Việt vui khúc khải hoàn, nhân dân lại được hưởng một cuộc sống thanh bình. Ngày 15 tháng 4 năm Mậu Thân tức ngày 29 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi chính thức làm lễ lên ngôi Hoàng đế tại Đông Đô (sau đổi thành Đông Kinh tức Thăng Long), khôi phục lại tên nước là Đại Việt, khai sáng ra triều Lê (thường được gọi là Hậu Lê để phân biệt với triều Tiền Lê thế kỷ X).

Ngay từ khi cuộc kháng chiến chưa kết thúc, vừa ra đến Đông Đô, Lê Lợi đã chú ý tới việc xây dựng chính quyền. Năm 1428, Lê Thái Tổ chia nước làm 5 đạo gồm: Đông, Tây, Nam, Bắc (tương ứng với Bắc Bộ ngày nay) và Hải Tây (từ Thanh Hoá đến Thuận Hoá). Trong đó, Nam đạo gồm các lộ Khoái, Lý Nhân (hay Lỵ Nhân vì kiêng húy Lê Thái Tổ mà đổi Lợi Nhân thành Lỵ Nhân), Tân Hưng, Kiến Xương và Thiên Trường. Lộ Lý Nhân chính là vùng Hà Nam hiện nay. Dưới các đạo là phù, trấn, lộ, huyện, châu. Cấp xã là đơn vị hành chính cơ sở địa phương, phân ra ba loại: lớn, vừa và nhỏ do các viên xã quan phụ trách.

Lê Thánh Tông đặc biệt quan tâm đến việc tăng cường năng lực quản lý của bộ máy nhà nước, thực thi nhiều đợt cải cách tổ chức chính quyền và tổ chức hành chính tại các địa phương. Vào năm Quang Thuận thứ 7 (1466), Thánh Tông chia cả nước làm 12 đạo thừa tuyên, gồm: Thanh Hoá, Nghệ An, Thuận Hoá, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Thái Nguyên và Lạng Sơn. Năm Quang Thuận thứ 10 (1469), Lê Thánh Tông cho định bản đồ của 12 thừa tuyên trong nước, tổng cộng 49 phủ, gồm 163 huyện, 50 châu(1). Trong đó thay đổi tên gọi của 6 thừa tuyên: Nam Sách đổi thành Hải Dương, Thiên Trường thành Sơn Nam, Quốc Oai thành Sơn Tây, Bắc Giang thành Kinh Bắc, Thái Nguyên thành Ninh Sóc, Trung đô phủ thành Phụng Thiên phủ. Đến năm Hồng Đức thứ 3 (1472), Thánh Tông đặt thêm thừa tuyên Quảng Nam, nâng tổng số thừa tuyên nước ta khi đó lên 13 thừa tuyên (đạo), có 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường... Thừa tuyên Sơn Nam gồm có 11 phủ, 42 huyện, trong đó phủ Lỵ Nhân quản lĩnh 5 huyện gồm 224 xã 2 thôn: Nam Xang có 70 xã, Kim Bảng có 50 xã, Duy Tiên có 49 xã, Thanh Liêm có 46 xã, 1 thôn và Bình Lục có 29 xã, 1 thôn(1).

(1) Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục. T1; tr 1072-1088. Đặng Xuân Bảng: Sử học bị khảo. tr. 391-392, lại chép: Đầu đời Lê chia nước làm 5 đạo, Thánh Tông chia bản đồ nước làm 13 thừa tuyên, 52 phủ, 178 huyện, 50 châu.

Năm 1527, sau khi đã tiêu diệt các phe phái đối lập và tập trung được quyền lực, Mạc Đăng Dung giành được ngôi vua từ nhà Lê, lập ra vương triều Mạc (1527 - 1677). Sau khi đăng quang, Mạc Đăng Dung chủ trương duy trì thiết chế chính quyền theo mô hình triều Lê, thực hiện việc truyền ngôi theo chế độ trưởng nam. Mặt khác, triều Mạc cũng học tập chế độ Thượng hoàng triều Trần, nhằm tránh sự tranh chấp ngôi giữa các con. Về mặt hệ thống hành chính ở trung ương, triều Mạc không có gì thay đổi nhiều so với thời Lê Thánh Tông, trong đó vua vẫn nắm quyền tối thượng quyết định mọi việc của quốc gia, chỉ xuất hiện thêm chức Phụ chính, người giúp việc vua điều hành chính sự tương ứng với chức Tể tướng thời Lý – Trần(3).

Đối với hệ thống chính quyền địa phương, triều Mạc vẫn duy trì cách xếp đặt của Lê Thánh Tông, nghĩa là cả nước vẫn gồm 13 đạo thừa tuyên. Mười ba đạo thừa tuyên thời Mạc gồm: Hải Dương, Kinh Bắc, Sơn Tây, Sơn Nam, Lạng Sơn, Ninh Sóc, Hưng Hoá, Tuyên Quang, An Bang, Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hoá, Quảng Nam. Hệ thống chính quyền địa phương thời Mạc gồm 4 cấp: Đạo hay lộ, bên dưới là cấp phủ, cấp dưới nữa là huyện hay châu và cấp xã là đơn vị hành chính cơ sở. Đặc biệt thời Mạc còn xuất hiện đơn vị hành chính là “tổng”, như ghi trên văn bia được phát hiện ở Thái Bình, Hà Nam.

Trên tấm bia Công chúa tự điển ở làng Vũ Bị, huyện Bình Lục, Hà Nam, dựng năm 1513, có ghi: “Cổ Bị tổng An Nội xã”, chức quan đứng đầu của tổng là chánh tổng. Như vậy có thể đưa ra nhận định: Hà Nam thời Mạc vẫn nằm trong địa phận của đạo (lộ) Sơn Nam, các cấp chính quyền địa phương gồm: đạo (lộ), huyện hay châu, tổng, xã, thôn. Vào những năm chiến tranh giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn, hầu như vùng đất Hà Nam không có nhiều thay đổi về tên gọi cùng địa dư. Khoảng những năm thuộc niên hiệu Thuận Đức (1600), Hoàng Định (1601 - 1619) của vua Lê Kính Tông, vì tránh tên huý nên huyện Duy Tân đổi thành huyện Duy Tiên. Theo Văn bia chùa An Thái (Phúc Lâm tự) ở thôn An Thái (An Mỹ, Bình Lục), niên đại dựng bia vào năm Vĩnh Tộ thứ nhất (1619) đời vua Lê Thần Tông, vì kiêng tên Bình An vương Trịnh Tùng nên huyện Bình Lục đổi thành huyện Thanh Lục. Năm Cảnh Hưng thứ hai của vua Lê Hiển Tông (1741), chia đặt Sơn Nam thượng lộ và Sơn Nam hạ lộ. Sử chép: “Tân Dậu, năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741)... Trịnh Doanh nhận thấy trộm cướp hoành hành ở Hải Dương, lòng người lo sợ; muốn giữ vững phiên trấn bảo vệ kinh kỳ, lấy uy quyền để trấn áp giặc cướp, bèn chia Sơn Nam làm thượng lộ và hạ lộ, hạ lệnh cho Trịnh Trụ, Ngô Đình Oánh, Trương Nhiêu và Nguyễn Đức Huy chia nhau làm Chưởng đốc... Các viên quan kể trên đều giữ việc quân và dân thuộc hạt mình”(1). Phủ Lỵ Nhân (Hà Nam) khi này cùng với các phủ Thường Tín, Ứng Thiên, Khoái Châu do Sơn Nam thượng lộ quản lĩnh và Chưởng đốc là viên quan hành chính cao nhất, phụ trách quân chính và dân chính của cả lộ. Năm Tân Tỵ, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 22 vua Lê Hiển Tông (1761), triều Lê - Trịnh lệnh cho lấy đất bãi của xã Nễ Độ, huyện Nam Xang (nay thuộc huyện Lý Nhân) và xã Yên Lệnh (nay thuộc huyện Duy Tiên) ở Sơn Nam thượng lộ, trích cấp cho người Man cày cấy, đặt làm Sở Tuy Viễn(2).

Năm 1789, sau chiến thắng quân Thanh, Nguyễn Huệ lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Quang Trung, tiến hành chấn chỉnh lại hệ thống hành chính. Vua Quang Trung đã cho thay đổi tên gọi Sơn Nam thượng lộ và Sơn Nam hạ lộ thành Sơn Nam thượng trấn và Sơn Nam hạ trấn. Phủ Lỵ Nhân trực thuộc Sơn Nam thượng trấn và phố Châu Cầu (huyện Kim Bảng) được chọn làm nơi đặt lỵ sở làm việc của Sơn Nam thượng trấn. Vì tránh tên huý của Vua Quang Trung (Nguyễn Quang Bình) nên huyện Bình Lục dưới thời Tây Sơn đổi gọi thành huyện Ninh Lục(1).

Năm Gia Long thứ nhất (1802), triều Nguyễn chia cả nước thành 23 trấn và 4 dinh(2). Hà Nam dưới thời Gia Long là phủ Lỵ Nhân thuộc trấn Sơn Nam thượng, năm Gia Long thứ 3 (1804), trấn lỵ vẫn theo như thời Tây Sơn, dựng đắp thành của trấn Sơn Nam thượng, đặt tại Châu Cầu (huyện Kim Bảng). Riêng huyện Ninh Lục lại trở về với tên gọi là huyện Bình Lục như cũ, đến năm Gia Long thứ 7 (1808), huyện Bình Lục do phủ Lý Nhân kiêm quản(3).

Vua Minh Mệnh nối ngôi Gia Long bắt đầu từ năm 1820, bắt tay ngay vào việc cải cách hành chính từ trung ương xuống địa phương, trong đó công cuộc cải tổ cơ cấu hành chính địa phương được Minh Mệnh đặc biệt chú ý(4). Năm 1822, Minh Mệnh cho đổi trấn Sơn Nam thượng thành trấn Sơn Nam, trấn Sơn Nam hạ thành trấn Nam Định(5).

Lúc này phủ Lý Nhân trực thuộc vào trấn Sơn Nam. Năm Minh Mệnh thứ 7 (1826), một đạo dụ được ban bố, đổi các dinh Quảng Bình, Quảng Trị và Quảng Nam thành trấn Quảng Bình, Quảng Trị và Quảng Nam. Từ đây trở đi, trên toàn bộ nước Việt Nam không còn đơn vị hành chính “Dinh” hay “Đạo” nữa. Mùa đông tháng 10 năm Tân Mão, niên hiệu Minh Mệnh thứ 12 (1831), nhà vua ban dụ tham khảo ý kiến các bề tôi. Sau khi được lời nghị bàn của đình thần, Minh Mệnh quyết định chia 11 trấn của Bắc thành làm 18 tỉnh từ Quảng Trị ra Bắc. Đồng thời năm 1831, Minh Mệnh cũng điều chỉnh cương vực và chia đặt lại một số địa phương. Trong đó tách 3 huyện thuộc phủ Tiên Hưng, trấn Nam Định, và 5 huyện (thuộc phủ Khoái Châu), trấn Sơn Nam, đặt làm tỉnh Hưng Yên. Còn 3 phủ ứng Hoà, Lý Nhân và Thường Tín thuộc trấn Sơn Nam và huyện Từ Liêm thuộc phủ Quốc Oai trấn Sơn Tây đổi thuộc vào phủ Hoài Đức, đặt làm tỉnh Hà Nội(1). Như vậy tới năm 1831, Phủ Lý Nhân được sáp nhập vào tỉnh Hà Nội, trấn Sơn Nam không tồn tại nữa, triều Minh Mệnh lấy trấn lỵ (tức thành của trấn Sơn Nam Thượng), vốn đặt tại Châu Cầu (huyện Kim Bảng) làm thành phủ Lý Nhân kiêm quản huyện Kim Bảng. Viên Tri phủ (Lý Nhân) cùng hai huyện nha Duy Tiên và Thanh Liêm cùng ở với nhau một nơi tại thành phủ Lý Nhân.

Khoảng những năm đầu niên hiệu Tự Đức thì bãi bỏ huyện nha hai huyện Duy Tiên, Thanh Liêm(2). Sau khi tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt chết vào tháng 7 năm 1832, thì chỉ ba tháng sau, tức là vào tháng 10 năm đó, Minh Mệnh cho tiến hành chia các tỉnh phía Nam. Như vậy cho đến tháng 10 năm Minh Mệnh thứ 13 (1832), trên toàn quốc trừ (phủ Thừa Thiên), có cả thảy là 30 tỉnh. Sau đó, Minh Mệnh còn phân thành 11 tỉnh lớn, 11 tỉnh vừa và 8 tỉnh nhỏ để định tiền công nhu cấp hàng năm. Vào năm này, huyện Bình Lục được đặt chức tri huyện, được một thời gian ngắn thì lại có đạo dụ: cho phủ Lý Nhân trích lấy hai huyện Nam Xang (Xương) và Bình Lục đặt riêng làm phân phủ (3).

Sau khi Minh Mệnh tiến hành cải cách ở địa phương tương đối triệt để, thì cơ cấu chính quyền vương triều Nguyễn khá hoàn chỉnh và hầu như cho tới các vị vua sau của triều Nguyễn không có sự thay đổi lớn nữa. Hệ thống chính quyền triều Minh Mệnh chia làm 4 cấp: trung ương do nhà vua nắm quyền tối thượng, tiếp theo là cấp trấn hoặc tỉnh, dưới nữa là cấp huyện (không có cấp phủ), cấp cơ sở là cấp xã (không có cấp tổng). Vùng đất Hà Nam trong thời Minh Mệnh vẫn thuộc tỉnh Hà Nội, lỵ sở của huyện Duy Tiên trước kia đóng tại xã Ninh Lão đến năm Minh Mệnh thứ 18 (1837), chuyển đóng nhờ ở phủ thành (Lý Nhân).

Lỵ sở của huyện Thanh Liêm trước đặt tại xã Hương Ngải trong huyện, đến năm Minh Mệnh thứ 20 (1819), cũng chuyển lên đóng nhờ tại phủ thành (Lý Nhân). Năm Tự Đức thứ 5 (1852), trong địa phận phủ Lý Nhân có một số thay đổi nhỏ về việc quản lý địa vực: Phân phủ Lý Nhân được đặt ra từ năm Minh Mệnh thứ 13 (1832), đến năm này (1852) bãi bỏ, thành lập trở lại 2 huyện Nam Xang (Nam Xương) và Bình Lục. Trong đó đặt chức tri huyện tại huyện Nam Xang, huyện Bình Lục do phủ Lý Nhân kiêm quản. Ngược lại, năm 1852, huyện Thanh Liêm lại bỏ chức tri huyện, giao cho huyện Bình Lục kiêm quản. Cũng vào những năm đầu thời Tự Đức thì bãi bỏ việc các huyện nha Duy Tiên, Thanh Liêm đóng nhờ tại phủ thành Lý Nhân. Từ đó cho tới trước năm 1890, hầu như phủ Lý Nhân không có gì thay đổi về địa dư, vẫn thuộc về tỉnh Hà Nội. Năm 1890, tỉnh Hà Nam được thành lập, tên gọi Hà Nam chính thức xuất hiện trong lịch sử với tỉnh lỵ là Phủ Lý.

II. HÀ NAM TRONG THỜI KỲ ĐẦU XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ QUỐC GIA ĐỘC LẬP TỰ CHỦ (KHÚC, DƯƠNG, NGÔ, ĐINH, TIỀN, LÊ)

Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, Ngô Quyền bắt tay ngay vào việc xây dựng chính quyền củng cố nền độc lập vừa giành được. Sử cũ chép: Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền quyết định bỏ chức tiết độ sứ của phong kiến phương Bắc và tự xưng vương: “Kỷ Hợi năm thứ nhất (939), mùa xuân vua (Ngô Quyền) bắt đầu xưng vương...” (1).

Sau 6 năm cầm quyền, vào năm 944, Ngô Quyền qua đời, trong triều đình xảy ra nhiều biến loạn và xung đột khiến cho chính quyền Trung ương non trẻ của vương triều Ngô bị suy yếu. Nhiều bề tôi của triều Ngô phải chạy trốn đi các địa phương khác, Hà Nam là một trong những vùng được chọn là nơi ẩn trốn sự truy lùng của các thế lực mới nổi lên lúc thời thế rối ren. Có những người đem cả gia tộc tới 40 người đến định cư tại vùng chiêm trũng Thanh Liêm. Tư liệu Hán văn hiện lưu giữ tại chùa Khánh Linh, thôn Khê Lôi (xã Liêm Tiết, huyện Thanh Liêm) mới được phát hiện năm 1997, cho biết: Sau khi Ngô vương Quyền qua đời năm 944, Lê Huy Tâm vốn là tả hữu cho nhà Vua, từ Nghi Tàm (nay thuộc thành phố Hà Nội) đã đưa 40 người trong họ về đây cư trú (1).

Đến năm 965, với việc Nam Tấn vương Ngô Xương Văn chết, đất nước lâm vào tình cảnh không có người đứng đầu, thổ hào, công thần cùng con cháu nhà Ngô, lợi dụng tình hình mỗi người hùng cứ một phương, tạo nên cục diện phân tán mà sử chép là “loạn 12 sứ quân”(2). Người anh hùng đứng ra dẹp yên được loạn cát cứ địa phương lúc đó là Đinh Bộ Lĩnh, người con của vùng đất Đại Hữu, châu Đại Hoàng, nay là xã Gia Phương (huyện Gia Viễn, Ninh Bình), nơi cận kề và có mối quan hệ khăng khít với vùng đất Hà Nam. Đinh Bộ Lĩnh sinh ra và lớn lên trong một gia đình “vọng tộc”, cha là Đinh Công Trứ từng giữ chức Thứ sử Hoan Châu thời họ Dương, họ Ngô nắm quyền.

Khi Đinh Công Trứ mất tại lỵ sở Hoan Châu, Đinh Bộ Lĩnh cùng mẹ là Đàm thị đưa gia quyến về sống tại quê nhà Ninh Bình. Ngay từ thuở nhỏ, Đinh Bộ Lĩnh đã sớm bộc lộ tính cách là một người có khả năng tập hợp được lực lượng. Vào độ tuổi trai tráng, Đinh Bộ Lĩnh được dân chúng địa phương tin cậy giao cho cai quản sách Đào úc(1) sau làm Thủ lĩnh châu Đại Hoàng, lấy vùng núi Hoa Lư làm căn cứ quân sự. Trong quá trình xây dựng lực lượng để tăng cường sức mạnh, một mặt chủ động thu thập nhân tài gồm những vị tướng lĩnh tài ba như: Lê Hoàn, Nguyễn Bặc, Phạm Cự Lượng, Đinh Điền..., mặt khác Đinh Bộ Lĩnh còn tranh thủ liên kết với Trần Minh Công, một trong mười hai sứ quân có thế lực mạnh đang cát cứ vùng Bố Hải Khẩu (thuộc thị xã Thái Bình ngày nay). Từ đó, uy thế của Đinh Bộ Lĩnh ngày càng lớn mạnh. Phạm vi chiếm giữ của Đinh Bộ Lĩnh suốt cả một vùng rộng lớn ven biển, hạ lưu sông Hồng, sông Đáy từ Hoa Lư (Ninh Bình) đến Cửa Bố (Thái Bình), Giao Thuỷ (Nam Định)(2). Tham gia sự nghiệp dẹp loạn của Đinh Bộ Lĩnh có rất nhiều người dân của các tỉnh vùng hạ lưu châu thổ sông Hồng, gồm cả nhân dân Hà Nam thuộc các huyện Thanh Liêm, Bình Lục, Kim Bảng...

Các nhân vật thường được nhắc đến trong công cuộc trung hưng này có: Trương Cát, Bảo Hương quê tại An Cừ (xã Liêm Thuận, huyện Thanh Liêm), Phạm Hán, Phạm Hổ ở Mai Động (xã Trung Lương, huyện Bình Lục), Chu Đang (Chu Đương) người Hương Đô (xã An Lão, huyện Bình Lục)... Các thủ lĩnh đều hăng hái đưa số quân tập hợp tại quê hương mình theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn. Nhà sư Nguyễn Minh Quang trụ trì tại chùa Bảo Thái thuộc xã Liêm Cần (huyện Thanh Liêm) cũng tích cực vận động các đệ tử có nhiệt huyết tham gia dưới ngọn cờ tụ nghĩa của Đinh Bộ Lĩnh. Các di tích hiện còn trên các vùng đất Hà Nam ngày nay, vẫn còn gợi nhớ tới những đóng góp tích cực của dân chúng Hà Nam đương thời vào chiến công chung dưới thời Đinh. Đó là anh em Nguyễn Ninh, Nguyễn Tĩnh ở Thanh Khê (xã Đồn Xá, huyện Bình Lục), thường được gọi một cách tôn kính là Tĩnh Công và Ninh Công, được dân làng Thanh Khê tôn thành hoàng làng thờ ở đình, vì hai ông đã có công chiêu tập quân sĩ, lập đồn trại tại quê hương, giúp đỡ Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn.

Sau khi lên ngôi Hoàng đế, Đinh Tiên Hoàng phong cho Nguyễn Ninh làm Tư thiên Thái giám, Nguyễn Tĩnh làm Thái bảo Trấn quốc công. Đặc biệt phải nhắc tới Đinh Điền và Lê Hoàn, những vị đại thần, vị tướng lừng danh của vương triều Đinh. Cánh đồng tại xã Liêm Cần (huyện Thanh Liêm) có tên gọi là bến Đồng Đò tương truyền là nơi các chiến thuyền của Thập đạo Lê Hoàn từng neo đỗ và luyện tập chiến thuật đánh giặc. Cũng tại Liêm Cần còn có Trại Nhuế - nơi Lê Hoàn đóng quân, trong đó có ao tắm ngựa, ruộng trồng cỏ để nuôi ngựa gọi là xứ Mã thực(1). Tục cướp cầu diễn ra vào mồng 4 tháng giêng âm lịch hàng năm tại làng Gừa (xã Liêm Thuận, huyện Thanh Liêm), nhằm tưởng nhớ tới Trương Nguyên, một vị tướng tài của làng tham gia đội quân của Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn mười hai sứ quân. Sau khi giang sơn thu về một mối, Đinh Tiên Hoàng tiến hành ban thưởng cho các tướng sĩ đã lập công, Trương Nguyên được ban Quốc tính (họ Đinh), song Trương Nguyên không nhận, xin trở về làng Gừa, nơi chôn rau cắt rốn, để phụng dưỡng cha mẹ. Về sau khi Trương Nguyên chết, Vua Đinh chia ruộng thờ tự, cho dân vùng Ninh Cư (làng Gừa ngày nay) lập đình thờ cúng. Tương truyền khi Trương Nguyên về ở làng Gừa có mang theo một quả cầu bằng gỗ, dùng để tập luyện trong quân. Trương Nguyên dạy cho cho dân làng cách chơi cầu, vừa là trò giải trí, vừa là hình thức luyện sức khoẻ (2). Mỗi khi mùa xuân về, trai tráng làng Gừa và các làng lân cận lại háo hức tập trung để tiến hành tục lệ cướp cầu vui khoẻ truyền thống.

Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh tự xưng Hoàng đế, đóng đô tại Hoa Lư, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt.

Trong vòng gần nửa thế kỷ từ 939 đến năm 980, hai vương triều Ngô và Đinh đều lưu lại những dấu ấn sâu sắc trong lịch sử giữ nước và dựng nước của dân tộc. Vương triều Ngô xuất hiện trên vũ đài chính trị với chiến thắng giặc Nam Hán, khẳng định nền độc lập tự chủ của quốc gia Đại Việt. Vương triều Đinh ra đời từ việc dẹp yên được mười hai sứ quân, đưa đất nước trở lại quỹ đạo thống nhất dưới sự quản lý của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền do hoàng đế đứng đầu.

DANH SÁCH CÁC NHÂN VẬT CÓ CÔNG THỜI ĐINH BỘ LĨNH ĐƯỢC THỜ Ở TỈNH HÀ NAM

TT

 

Họ và tên

(nhân vật)

Nơi thờ

 

Ghi chú

Xã (làng, thôn)

Huyện

1

Chu Đang (Chu Hương)

Mỹ Đô (làng)

Bình Lục

Làng: (làng)

Như trên: x

2

Phạm Hán

Phạm Hổ (Phạm Hổ)

Mai Động (th)

x

Hai ông cùng được thờ 1 nơi

3

Tĩnh Công

Thanh Khê (th )

x

 

4

Ninh Công

Thanh Khê (th )

x

 

5

Đinh Tiên Hoàng

Đôn Lương (làng)

Duy Tiên

 

6

Đinh Điền

Lạc Nhuệ (làng)

Kim Bảng

 

 

7

Đinh Tiên Hoàng

x

x

Đặng Xá (làng)

Đồng Lạc (làng)

Phương Khê (làng)

x

x

x

 

8

Phạm Hạp

Cao Mật (làng)

Thanh Liêm

 

9

Bảo Hương

 

x

 

10

Đinh Điền

Động Xá (làng)

x

 

11

Đinh Bộ Lĩnh

Ninh Thái (làng)

x

 

12

Đinh Tiên Hoàng

Ứng Liêm (làng)

x

 

13

Nguyễn Minh Quang

Vực (làng)

x

 

14

Trương Cát

 

x

 

15

Trương Nguyên

Gừa (làng)

x

 

16

Nguyễn Bặc

Liêm Cần

x

xã Liêm Cần

 

Sau sự kiện Đỗ Thích giết hại cả hai cha con Đinh Tiên Hoàng vào tháng 10-979(1), Đinh Toàn tuổi còn ấu thơ được đưa lên ngôi vua. Triều đình Hoa Lư lâm vào tình trạng khủng hoảng, ngả nghiêng. Liên tiếp nhiều biến cố quan trọng cùng lúc ập đến. Nhóm Đại thần Định quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền và Phạm Hạp có ý nghi ngờ Lê Hoàn sẽ làm phản cướp ngôi nhà Đinh, mới cùng cất quân chia làm hai đạo thuỷ, bộ kéo về kinh đô Hoa Lư nhằm giết Lê Hoàn, song sự việc không thành, đều bị giết cả.

Đền thờ Lê Hoàn ở xã Liêm Cần, Thanh Liêm.   Ảnh: Thế Trang

Lúc này, một số thế lực bên ngoài cũng  lăm le toan tính mưu đồ tấn công Đại Cồ Việt. Tại phương Nam, vua Chiêm Thành đem hơn nghìn chiến thuyền của thuỷ quân Chiêm Thành theo ven biển tiến đánh vào Hoa Lư, nhưng gặp bão to thuyền đắm gần hết, vua Chiêm may mắn thoát chết. Tháng 6 năm 980, Thái thường Bác sĩ Hầu Nhân Bảo giữ chức Tri Ung Châu (tỉnh Quảng Tây ngày nay), dâng thư lên vua Tống xin đánh gấp Đại Cổ Việt. Viên Tể tướng kiêm mưu sĩ thâm Nho là Lư Đa Tốn tán thành và còn đưa ra chiến lược “tật lôi bất cập yểm nhĩ” (Sét đánh nhanh không kịp bịt tai) nhằm úp gọn Đại Cồ Việt, khuyên vua Tống sớm triển khai việc tiến quân xâm lược(1). Trước tình hình đất nước, dân tộc đang trải qua những giây phút nguy nan như vậy, Thập đạo tướng quân Lê Hoàn được Thái hậu Dương Vân Nga cùng đông đảo tướng sĩ ủng hộ lên kế vị ngôi vua. Đây là một cuộc chuyển giao vương quyền từ nhà Đinh sang triều Tiền Lê trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt và cực kỳ quan trọng. Lễ đăng quang của Lê Hoàn diễn ra khoảng tháng 7 năm 980.

Lê Hoàn (941 - 1005), đã từng có thời kỳ sinh sống tại Ái Châu, sau vào độ tuổi trưởng thành ông lại trở về Thanh Liêm tập họp nhiều thanh niên trai tráng, luyện tập võ nghệ thành một đội nghĩa quân dũng cảm lập nhiều chiến công (2). Ông đã đem đội quân thiện chiến của mình theo Đinh Bộ Lĩnh tham gia việc dẹp loạn nạn cát cứ của các sứ quân, khắc phục tình trạng phân tán trong toàn quốc. Do lập được nhiều công tích trong chiến trận và do tài năng xuất chúng, Lê Hoàn được Đinh Tiên Hoàng giao cho chức Thập đạo tướng quân Điện tiền Đô chỉ huy sứ, cai quản toàn bộ quân đội triều Đinh.

Vào năm 980, khi mới lên ngôi vua, Lê Hoàn đã phải đương đầu với sự uy hiếp nghiêm trọng cả từ phía Bắc và phía Nam. Năm 981, dưới sự lãnh đạo tài tình của Lê Hoàn, quân ta đã đập tan cuộc xâm lược của giặc Tống. Tiếp theo Lê Hoàn lại đưa quân dập tắt được âm mưu quấy rối của Chiêm Thành. Nhân dân Hà Nam đã góp một phần công lao to lớn vào những chiến thắng phá Tống bình Chiêm của triều Tiền Lê. Nhiều tướng lĩnh ở Hà Nam mà tên tuổi của họ mãi được nhắc đến, như Nguyễn Minh Quang (943-987), người xã Liêm Cần, từng làm tới chức Phó tướng cho Lê Hoàn.

Sau chiến công phá Tống bình Chiêm, Lê Hoàn tiếp tục củng cố và xây dựng kinh tế, quốc phòng trên toàn quốc, vùng Hà Nam cùng với Ninh Bình vẫn là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước được Lê Hoàn đặc biệt quan tâm. Vấn đề kinh tế được Lê Hoàn coi là trọng tâm hàng đầu, ông đã thân chinh đi cày ruộng tịch điền ở Đọi Sơn (tức Núi Đọi, thuộc huyện Duy Tiên, Hà Nam). Sử cũ chép: “Đinh Hợi, năm thứ 8 (987)... Mùa xuân, vua bắt đầu cày ruộng tịch điền ở núi Đọi, được một chĩnh nhỏ vàng, lại cày ở núi Bàn Hải, được một chĩnh nhỏ bạc, vì thế đặt tên là ruộng Kim ngân” (1). Chính từ sự kiện này với hình thức cày ruộng tịch điền của Lê Đại Hành, ông vua đầu tiên trong lịch sử xuống đồng thâm nhập thực tế, đã mở rộng chính sách trọng nông truyền thống cho nhiều đời sau. Các ông vua tiến bộ kế tiếp sau cũng thường học theo cách làm của Lê Hoàn: tiến hành lễ tịch điền vào ngày xuân đầu năm.

Nhằm thực hiện quyền sở hữu của nhà nước quân chủ, Lê Đại Hành đã tiến hành phân phong cho các con tại một số vùng thuộc châu thổ sông Hồng. Một phần lớn ruộng đất vương triều Tiền Lê giao cho giáp, xã quản lý hàng năm có nghĩa vụ nộp tô thuế cho Nhà nước. Có một phần rất nhỏ ruộng đất thuộc quyền sở hữu tư nhân, số ruộng này thường được bổ sung bởi việc khai khẩn diện tích hoang phế ngay tại vùng châu thổ sông Hồng còn khá phổ biến hồi thế kỷ X (2). Công cuộc khẩn hoang tuy mới ở một mức độ rất khiêm tốn, nhưng cũng đã thu hút được một số hộ gia đình từ nơi khác đến các vùng châu thổ sông Hồng, đặc biệt ở vùng hạ lưu nơi mà dân cư còn thưa thớt, vắng vẻ như Hà Nam. Vào khoảng những năm đầu thời Tiền Lê, có các gia đình từ vùng Hoà Bình đã đến lập nghiệp và dựng trang trại tại huyện Thanh Liêm(3). Từ năm 944 đến 980, trải qua gần 40 năm canh tác, vùng đất Liêm Tiết, Thanh Liêm đã được thục hoá, thuận tiện cho việc trồng cấy. Dân cư sinh sống tại đây cũng ngày càng đông đúc.

Dưới triều Tiền Lê, nghề thủ công nghiệp truyền thống ở các làng quê Hà Nam như: trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa cổ truyền vẫn tiếp tục được đẩy mạnh. Vào năm 985, Lê Hoàn đã đưa một vạn tấm lụa sang cống vua Tống. Sự kiện này chứng tỏ nghề dệt thời Tiền Lê đã phát triển và đạt tới trình độ kỹ thuật cao. Nghề rèn đúc, kiến trúc cũng rất thịnh hành, để phục vụ cho nhu cầu về quân sự cũng như sinh hoạt cung đình và dân sinh trong điều kiện đất nước hoà bình, độc lập. Hàng loạt cung điện đã được xây dựng ở kinh đô Hoa Lư dưới triều Tiền Lê, với một quy mô to lớn, như sử từng chép: Giáp Thân năm thứ 5 (984), dựng nhiều cung điện, làm điện Bách bảo Thiên tuế ở núi Đại Vân làm điện coi chầu, điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, rồi điện Phong Lưu, Tử Hoa, Bồng Lai, Cực Lạc; trong có điện lợp bằng ngói bạc, cột điện dát vàng...

Nhà vua còn cho sản xuất hàng ngàn chiếc mũ đâu mâu bằng kim loại và những vật liệu khác sử dụng vào việc đóng thuyền chiến. Sự giao lưu kinh tế hàng hoá trong giai đoạn này gắn liền với việc xuất hiện những tiền đúc bằng đồng, kế tiếp việc đúc tiền riêng của nước ta từ thời Đinh. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: Giáp Thân, năm thứ 5 (984), mùa xuân, tháng hai, đúc tiền "Thiên Phúc” (1). Các nhà nghiên cứu đã xác định: “Vua Lê Đại Hành nhà Tiền Lê có ba niên hiệu: Thiên Phúc (980-988), Hưng Thống (989-994), Ứng Thiên (994-1005). Cả thư tịch lẫn di vật đều chỉ cho biết một loại tiền mang niên hiệu Thiên Phúc, đó là đồng “Thiên Phúc trấn bảo” (2). Tất cả những việc đó, đã tạo thành một động lực thúc đẩy nghề rèn cùng kỹ nghệ đúc, pha chế hợp kim, nghệ thuật trang trí, kiến trúc, phát triển mạnh mẽ hơn trước. Mặt khác cũng chứng tỏ, nền kinh tế giai đoạn này của triều Tiền Lê có bước phát triển mới.

Đặc biệt, nghề làm gốm đã đạt được tới trình độ kỹ thuật cao. Tại khu di tích Hoa Lư đã phát hiện được nhiều hiện vật ngói ống, ngói bản cùng nhiều loại gạch có chữ “Giang Tây quân”, “Đại Việt quốc quân thành chuyên”. Việc phát hiện những di vật thuộc giai đoạn Đinh - Tiền Lê lần đầu tiên tại Khu di tích Hoàng thành Thăng Long như gạch màu đỏ, có in chữ “Đại Việt quốc quân thành chuyên”, trang trí hình uyên ương(3) đã minh chứng sự tham gia vào công cuộc xây dựng kinh thành Thăng Long ở thế kỷ X của những người thợ thủ công tài hoa của các địa phương cả nước, trong đó có vùng đất Hà Nam. Nghề thuộc da và làm đồ da đã xuất hiện, vì vậy các đội quân lính tại kinh đô Hoa Lư và tại các vùng khác nữa đều đội mũ da...(1).

Thủ công nghiệp thời Tiền Lê không còn hoạt động lẻ tẻ, rời rạc; thợ thủ công ngày càng trở thành một tầng lớp đông đảo hơn, có trình độ kỹ thuật cao hơn. Thương nghiệp được đẩy mạnh, không chỉ khuôn hẹp phạm vi trao đổi buôn bán nhỏ trong thị trường nội địa, triều Tiền Lê còn mở rộng quan hệ thông thương với bên ngoài, đặc biệt là buôn bán ven đường biên với Trung Quốc. Năm 976, thuyền buôn nước ngoài đã đến xin trao đổi hàng hoá. Năm 1007, vua Lê Long Đĩnh chính thức cho phép đặt quan hệ mua bán tại các chợ vùng biên thuộc châu Liêm (tỉnh Quảng Đông) và trấn Như Hồng (Quảng Đông). Đồng thời với việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, vương triều Tiền Lê còn chú ý mở mang giao thông nhằm phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế đất nước và đời sống nhân dân.

Nếu như thời Ngô và Đinh không thấy có ghi chép việc đào sông làm đường thì sang thời Tiền Lê, các ông vua đã thường xuyên thực thi việc mở rộng hệ thống giao thông thuỷ bộ trong toàn quốc. Hà Nam đương thời cũng là một trong những vùng được chú ý phát triển giao thông. Khi vua Lê Đại Hành tiến hành lễ cày “tịch điền” tại Đọi Sơn, quả núi có hình thế đẹp mà lại hữu tình, trên núi dưới sông, quần thần đã cho dựng tại phía Tây chân núi Đọi các Dinh để làm hành tại cho vua nghỉ, hiện vẫn còn các di tích là nền của Dinh Trong, Dinh Ngoài. Muốn đi đến Đọi Sơn, vua Đại Hành phải đi thuyền ngự theo dòng Hoàng Long, qua ngã ba Gián Khẩu, nhập vào sông Đáy, ngược lên Châu Cầu, rồi theo dòng Châu Giang lên núi Đọi. Chắc chắn các bề tôi của triều Tiền Lê đã phải tiến hành khai vét các dòng sông trong địa phận Hà Nam như sông Châu, cùng các nhánh sông khác để phục vụ cho chuyến đi kinh lý mang tầm quan trọng này của vua Lê Đại Hành.

Vào thời kỳ này, Nho giáo đã được du nhập vào nước Đại Cồ Việt, nhưng chưa phát triển rộng rãi trong toàn xã hội. Giới tăng lữ vẫn là những người thông thạo Nho học và truyền bá tư tưởng của các Nho gia. Họ là đại biểu cho tầng lớp trí thức đương thời, là những cố vấn trị nước cho các vua Tiền Lê. Với vốn kiến thức Nho-Phật-Đạo, họ đã tham gia tích cực vào nhiều lĩnh vực, đóng góp nhiều ý kiến quý cho triều đình Tiền Lê, được mọi người kính trọng và nể vì. Có nhiều nhà sư nổi tiếng thời đó như: Ngô Chân Lưu, Đỗ Pháp Thuận, Ma Ha, Vạn Hạnh... Vua Lê Đại Hành thường gọi Đỗ Pháp Sư chứ không dám gọi tên thực của Đỗ Pháp Thuận. Nhà vua cũng từng nhiều lần mời sư Ma-Ha người Chiêm Thành, giỏi cả tiếng Hán lẫn tiếng Phạn về Hoa Lư hỏi về đạo. Cho đến cuối nhà Tiền Lê, năm 1007, vua Lê Long Đĩnh còn sai con là Minh Sưởng sang nhà Tống xin Cửu kinh (9 bộ Kinh nhà Nho) và kinh sách Đại Tạng (kinh sách nhà Phật), chứng tỏ sự chủ động tiếp thu tôn giáo của các vua Tiền Lê.

Phật giáo đã đóng một vai trò quan trọng, khi đó đã trở thành công cụ tư tưởng của triều Tiền Lê. Với đội ngũ trí thức tăng lữ “nhập thế”, hoà mình vào cuộc sống, Phật giáo đã chiếm được vị trí quan trọng trong xã hội. Hiện tại trong các địa phương của Hà Nam còn lưu lại những dấu vết Phật giáo của thế kỷ X. Sự tích chùa cổ Khánh Linh ở thôn Khê Lôi (thuộc xã Liêm Tiết, huyện Thanh Liêm) cho biết: Thời Tiền Lê đã có người về đây lập chùa thờ Phật(1).

Văn hóa thời kỳ này cũng được chú ý phát triển trên cả 2 phương diện: Văn hóa cung đình và Văn hóa dân gian, trong đó tính chất văn hóa dân gian sâu đậm hơn. Dòng văn học dân gian thể hiện nhận thức và tình cảm của quần chúng lao động, trong đó đông đảo hơn cả là nông dân và thợ thủ công. Dòng văn học dân gian vốn có nguồn gốc từ thời kỳ Văn Lang, Âu Lạc đã luôn luôn phát triển trong thời kỳ đấu tranh chống ách thống trị Bắc thuộc, bất chấp chính sách văn hoá phản động của đế quốc phong kiến, và là một sức mạnh to lớn chống lại chính sách ấy cũng như ách thống trị ấy(2).

Có thể nói, thế kỷ X, bắt đầu từ cha con Khúc Hạo, Khúc Thừa Dụ cho đến giai đoạn Lê Hoàn, sự nghiệp độc lập tự chủ quốc gia đã được hình thành và giữ vững. Nhân dân Hà Nam đã cống hiến nhiều sức lực cùng vật chất cho công cuộc dẹp yên nội loạn (mười hai sứ quân), thống nhất đất nước và đánh tan mọi sự xâm lược của ngoại bang ở cả phương Bắc (triều Tống) và phương Nam (Chiêm Thành), đóng góp tích cực cho sự nghiệp củng cố và xây dựng mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa của nước Đại Cồ Việt.

III. HÀ NAM TỪ THẾ KỶ XI ĐẾN THẾ KỶ XV (LÝ, TRẦN, HỒ, LÊ SƠ)

1. Nhân dân Hà Nam tích cực tham gia chống quân xâm lược, giữ gìn quốc gia và quê hương

a) Hà Nam với sự kiện dời đô năm Canh Tuất (1010) của vương triều Lý

Cuộc dời đô nổi tiếng của Lý Thái Tổ được tiến hành bằng đường thủy chính là vào tháng 7, mùa thu năm Canh Tuất. Sử cũ chép: “Vua dời đô từ thành Hoa Lư sang thành Đại La, thuyền tạm đỗ dưới thành, có rồng vàng hiện ra trên thuyền ngự, do đó đổi gọi là thành Thăng Long(1). Mặc dù sử sách không ghi chép cụ thể về địa điểm xuất phát cùng chặng đường phải đi của đoàn thuyền ngự, nhưng căn cứ vào thực địa và suy đoán có thể vạch ra như sau: Cuộc hành trình đường thuỷ từ cựu kinh Hoa Lư ra tận kinh Thăng Long, tất sẽ đi theo tuyến sông Hoàng Long - sông Đáy - sông Châu nằm trong địa phận Hà Nam - sông Hồng. Cuối mùa hè đầu mùa thu hàng năm, thường là thời kỳ nước các con sông đang dâng cao, rất thuận tiện cho việc di chuyển bằng thuyền, không sợ bị mắc cạn. Mặt khác những đợt gió nồm thổi mạnh cuối hè, đầu thu càng làm cho cuộc dời đô chắc chắn rất quy mô và hùng hậu của Lý Thái Tổ được diễn ra “thuận buồm xuôi gió”.

Mùa thu năm đó, có thể đoàn thuyền vua Lý xuất phát ngay từ Thành Ngoại, khu Ghềnh Tháp - nơi tập luyện thuỷ binh từ thời vua Đinh. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, đoàn thuyền ngự có thể ra tới sông Hoàng Long với bến chợ Trường Yên tấp nập, đông vui. Từ bến Trường Yên, đoàn thuyền trở lái xuôi về phía đông, tới ngã ba Gián khẩu - nơi sông Hoàng Long hợp lưu với sông Đáy, thì đoàn thuyền cũng bắt đầu ngược theo dòng sông Đáy lên hướng Bắc. Tới làng Châu Cầu (tức thị xã Phủ Lý ngày nay), nơi sông Đáy tách một nhánh chảy sang phía Đông hợp lưu với sông Châu, đoàn thuyền rẽ theo ngả này để đến ngã ba Lỗ Hà ra sông Hồng. Từ đây, cứ theo sông Hồng thẳng tiến lên hướng Bắc chỉ khoảng hơn 60 km là tới thành Đại La(2).

Quá trình di dời kinh đô vào đầu thế kỷ XI, với một chặng đường tuy không dài lắm, song quốc gia Đại Cồ Việt vừa phải trải qua những cuộc chiến tranh gian khổ, dân chúng đang nghèo nàn, nên triều đình nhà Lý cũng phải dự tính, lo liệu từ sớm để cuộc dời đô thành công. Mặt khác, cuộc di chuyển đòi hỏi phải cần nhiều nhân lực, vật lực, không thể chở theo mọi thứ trên những con thuyền còn chưa được hiện đại. Vì vậy vùng đất Hà Nam cận kề Hoa Lư, nơi hành trình của đoàn thuyền ngự đi qua và dừng trú nhiều, cần có những đóng góp xứng đáng. Chắc chắn nhân dân Hà Nam đã có những đóng góp đáng kể cả về vật chất lẫn tinh thần vào cuộc dời đô nổi tiếng và thành công của vua Lý Thái Tổ.

b) Nhân dân Hà Nam với cuộc Nam chinh năm 1069 của vua Lý Thánh Tông

Cùng với việc tập trung củng cố chính quyền trung ương tập quyền trên nhiều phương diện, các vua đầu triều Lý, nhất là vua Lý Thánh Tông (1054 - 1072), rất có ý thức xây dựng một quốc gia Đại Việt hùng mạnh nhằm ngăn chặn mọi sự tấn công từ phương Bắc và dẹp yên sự xâm lấn quấy nhiễu từ phương Nam. Trước những sự khiêu khích dồn dập dựa vào thế lực nhà Tống của Chế Củ - vua Chiêm Thành thời đó, ngày 24-2-1069, Lý Thánh Tông hạ chiếu thân chinh đi đánh Chiêm Thành. Lý Thường Kiệt được cử làm Đại tướng quân đem quân đi tiên phong và kiêm chức Nguyên soái. Lực lượng quân đội huy động trong lần Nam chinh này tới 5 vạn người, trong đó chủ yếu là quân thuỷ với hàng trăm thuyền chiến.

Cuộc hành quân của quân đội Lý Thánh Tông bắt đầu từ ngày 8-3-1069 và xuất phát từ một bến sông Hồng thuộc địa phận Kinh thành Thăng Long: “Thuyền xuôi dòng sông Lô (Nhị Hà), qua Lý Nhân hành cung (vùng Nam Xương), rẽ xuống phía Nam rồi ra cửa Đại An. Cửa Đại An nay trên sông Đáy cách bể chừng 20 cây số, thuộc địa phận làng Quần Liêu, huyện Đại An, tỉnh Nam Định... Từ Lý trở về trước cửa này là chỗ các thuyền mành qua lại để đi từ các sông nước ta ra bể vào Nam...”(1).

Qua nghiên cứu ghi chép của các thư tịch cổ và các truyền thuyết, di tích địa phương có thể khẳng định, cuộc Nam chinh này của Lý Thánh Tông có đóng góp không nhỏ về nhân lực cũng như vật chất của nhân dân Hà Nam. Đoàn quân khổng lồ với 5 vạn người khi đi qua phủ Lý Nhân, nhân dân Hà Nam chắc chắn đã ủng hộ, giúp đỡ rất nhiều cho đội quân của triều đình cả sức người và không chỉ về vật chất mà còn bổ sung nhiều con em trai tráng trong vùng cho đoàn quân Nam chinh này.

Tại thôn Quyển Sơn (xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng) hiện còn lưu giữ nhiều câu chuyện kể cùng những địa danh gắn liền với cuộc hành quân năm 1069 và vị Nguyên soái Lý Thường Kiệt. Người dân nơi đây kể rằng: Năm 1069, đoàn thuyền chiến của Lý Thường Kiệt theo dòng sông Đáy đi chinh phạt giặc phương Nam, khi đi qua trại Canh Dịch, nay là thôn Quyển Sơn thì gặp cơn gió lớn. Trận gió này bẻ gẫy cột buồm và cuốn lá cờ đại lên đỉnh núi. Lý Thường Kiệt cho quân lính dừng lại rồi cùng tướng sĩ lên làm lễ tế trời đất cầu mong chiến thắng. Vị Nguyên soái hay chữ đã đặt tên quả núi là Cuốn Sơn và trại Canh Dịch cũng đổi là làng Cuốn Sơn. Sau trận đại thắng Chiêm Thành, Lý Thường Kiệt trở về kinh đô, qua vùng Cuốn Sơn, nhớ lời cầu nguyện cũ, cho dừng thuyền, hạ trại bên rừng trúc, giết trâu mổ bò làm lễ tạ, khao thưởng ba quân. Lý Thường Kiệt cho mời dân làng cùng dự lễ mừng chiến thắng, các thôn nữ đến hát múa, trai tráng đua thuyền góp vui. Những bài hát múa của các thôn nữ có nội dung ca ngợi chiến công, tài chỉ huy của Nguyên soái Lý Thường Kiệt cùng cuộc sống thanh bình, hạnh phúc lứa đôi. Trò múa này được gọi là hát Dậm. Sau này để tưởng nhớ công lao của Lý Thường Kiệt đối với đất nước và địa phương, nhân dân Quyển Sơn lập đền thờ Lý Thường Kiệt tại nơi ông cho mở hội chiến thắng. Đó là Đền Trúc ở dưới chân núi Cấm.

Lại có một truyền thuyết khác cũng liên quan tới Lý Thường Kiệt và cuộc hành quân năm 1069: Khi Lý Thường Kiệt đến đóng quân tại vùng Quyển Sơn, một vị lương y trong đội quân lên núi Cấm hái thuốc, phát hiện tại đây có cây cỏ thi là loại thuốc quý, có thể chữa được nhiều bệnh nan y(1).

Không chỉ ở Quyển Sơn mà tại nhiều vùng khác của Hà Nam như thôn Bùi, làng Thịnh Châu (tổng Phù Đạm, huyện Kim Bảng) hay làng Yên Xá (tổng Kỳ Cầu, huyện Thanh Liêm)... đều lập đền thờ cùng thần tích, truyền thuyết về thân thế, sự nghiệp vũ công hiển hách của Lý Thường Kiệt. Tại làng Cổ Viễn (huyện Bình Lục) hiện còn đền thờ Phan công chúa, ngọc phả tại đây cho biết: vùng đất cổ Bình Lục có hệ thống giao thông quan trọng, nên vào thời Lý, Trần thường có những cuộc hành quân và chiến đấu tại đây. Khi Lý Thánh Tông đưa quân thực hiện cuộc Nam chinh năm 1069, có hành quân qua làng Cổ Viễn, công chúa họ Phan đã xin được ở lại để khai phá vùng đất này. Công chúa đã cùng nhân dân nơi đây cần cù, “một nắng hai sương”, mở mang diện tích cày cấy. Sau khi công chúa qua đời, dân làng tôn làm Thành hoàng.

c) Hà Nam trong ba cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông - Nguyên thế kỷ XIII

Đế quốc Mông - Nguyên ở thế kỷ XIII, sau hơn nửa thế kỷ tiến hành những cuộc chiến tranh đẫm máu tàn bạo trong lịch sử nhân loại, đã chiếm được một lãnh thổ rộng lớn suốt từ châu Á sang châu Âu. Đại Việt đương thời cũng nằm trong ý đồ thôn tính của đế quốc Mông - Nguyên. Chúng muốn chiếm Đại Việt và biến Đại Việt trở thành bàn đạp để tấn công các nước khác ở Đông Nam Á, sử nhà Nguyên chép: “Ngột Lương Hợp Thai vào Giao Chỉ định kế lâu dài’’(1).

Tháng 1-1258, Ngột Lương Hợp Thai hùng hổ đem khoảng hơn hai vạn rưởi quân bao gồm cả kỵ binh Mông Cổ và quân Thoán (vùng Vân Nam) tiến dọc theo sông Hồng sang xâm lăng Đại Việt(2). Trước thế mạnh ban đầu của địch, vua tôi triều Trần chủ động vừa đánh vừa rút khỏi Kinh thành Thăng Long, một mặt bảo đảm an toàn lực lượng của ta, mặt khác nuôi ý chủ quan của địch, để đợi dịp thuận lợi, quân ta sẽ phản công. Quân đội và vua quan triều Trần quyết định rút về vùng sông Thiên Mạc (thuộc huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam).

Sông Thiên Mạc là một dòng sông ngắn (chính là con sông Mang Giang đã cạn từng phần), chia nước của sông Nhuệ đoạn cầu Giẽ, chảy qua các huyện Phú Xuyên, qua vùng Hoà Mạc-Trác Bút (Châu Giang huyện Duy Tiên), rồi đổ vào sông Hồng. Địa điểm Tắc Giang hiện nay - một bên là thôn Lỗ Hà (trong đó có xóm A Lỗ, xã Chuyên Ngoại, huyện Duy Tiên), một bên là thôn Mạc Thượng (xã Chính Lý, huyện Lý Nhân).

Con đường rút lui chiến lược mà vua quan triều Trần thực hiện từ ngày 18- 2-1258, xuất phát từ Thăng Long theo dòng Tô Lịch, đi vào sông Nhuệ, xuôi dòng Thiên Mạc (Mang Giang) tới ngã ba Tắc Giang rồi rẽ vào sông Hồng về phía Thiên Trường(3). Toàn bộ triều đình, hoàng gia và quân lính đã rút lui an toàn vì có sự bảo vệ và yểm trợ của lực lượng bộ binh ven bờ sông Hồng, sông Nhuệ, sông Đáy, sông Thiên Mạc và cả sông Hoàng Giang nữa. Những “chốt” - gọi là thái ấp, do những tôn thất triều Trần hay những người họ khác được ban Quốc tính lập trên đường nước từ Thăng Long và đi về phía Thiên Trường - Tức Mặc, đã tạo thành một hệ thống đồn luỹ khá kiên cố, mà kẻ địch không dễ gì có thể qua được. Trên con đường nước Thăng Long - Thiên Trường, ở hầu hết (nếu không phải là tất cả) các ngã ba sông quan trọng đều có các cứ điểm chính trị - quân sự - kinh tế của nhà Trần.

Chế độ thái ấp thời Trần, thể hiện một tinh thần cảnh giác cao độ của các vua Trần. Các thái ấp thường được đặt ở những vị trí hiểm yếu của đất nước hoặc là cần thiết đối với cung vua(1). Đó là thái ấp của Trần Khát Chân tại Hoàng Mai, Tương Mai (hiện thuộc phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, Hà Nội), thái ấp Trần Thông ở Thanh Oai (Hà Tây bên hữu ngạn sông Nhuệ), thái ấp của Trần Quốc Tảng tại ngã ba Gián Khẩu, thái ấp của Trần Khánh Dư tại phía dưới ngã ba ở Dưỡng Hoà - Duy Hải (huyện Duy Tiên), thái ấp của Trần Thủ Độ gần ngã ba sông Châu...(2). Trên chặng đường rút lui chiến lược năm 1258, vua tôi nhà Trần đi qua khá nhiều địa phương của Hà Nam. Nhân dân Hà Nam ở mọi vùng miền đều đã tích cực tạo nhiều điều kiện vật chất như lương thực, nơi tạm trú, để ủng hộ và bảo vệ vua tôi nhà Trần. Kho lương ở đền Trần Thương (xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân) là một minh chứng cho tấm lòng nhiệt tình với cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất của nhân dân Hà Nam. Về mặt địa lý tự nhiên, làng Trần Thương xưa ở ngay bên bờ sông Hồng có nhiều gò đống, cây cối um tùm. Trần Thương là gò cao nhất, do vậy việc bố trí một kho hậu cần ở đây có ý nghĩa quốc phòng, không chỉ là kho lương cung cấp thường xuyên cho những trận chiến đấu thời Trần, mà có thể đây còn là kho hậu cần lâm thời phục vụ cho cuộc rút lui năm 1258 (3).

Sử sách thường nhắc lại các hoạt động của bà Trần Thị Dung (1) trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần thứ nhất năm 1258. Giữa lúc chiến trận đang căng thẳng, vua Trần Thái Tông ra quyết định giao cho bà Trần Thị Dung việc tổ chức một cuộc sơ tán khẩn cấp toàn bộ gia quyến của các tôn thất, ngoại thích trong triều, cùng vợ con tướng lĩnh và những vật dụng cần thiết. Bà đã bình tĩnh, khéo léo điều động thuyền, xe và sắp xếp việc sơ tán người. Đồng thời bà còn huy động nhân dân kinh thành Thăng Long thu xếp vũ khí, lương thực từ các kho của Nhà nước vận chuyển xuống thuyền đưa về vùng Hoàng Giang (Lý Nhân). Công tác sơ tán kinh thành nhanh gọn, bảo đảm bí mật. Lương thực, vũ khí không bị lọt vào tay giặc, thực hiện tốt kế hoạch “tiểu dân thanh dã” (vườn không nhà trống). Khi giặc Mông - Nguyên kéo vào, Thăng Long chỉ còn là toà thành trống rỗng. Khi đến Hoàng Giang (Lý Nhân), bà Trần Thị Dung chăm sóc chu đáo toàn bộ bầu đoàn thê tử của tôn thất, tướng lĩnh, khiến cho vua quan, tướng sĩ trong triều yên tâm chiến đấu chống giặc. Khi quân ta mở cuộc phản công thì chính bà lại đứng ra chỉ huy công tác cung cấp hậu cần (2).

Đánh giá về công lao của bà Trần Thị Dung, sử gia Ngô Sĩ Liên đã viết: "... Đến khi người Nguyên sang xâm lấn, kinh thành thất thủ. Linh Từ ở Hoàng Giang giữ gìn hoàng thái tử, cung phi, công chúa và vợ con của các tướng thoát khỏi giặc cướp, lại khám xét thuyền của các nhà có chức giấu đồ quân khí, đều lấy hết đưa đến quân, xét về phần nội trị cho nhà Trần thì Linh Từ có nhiều công to...”(3).

Năm 1285, Đại Việt của vương triều Trần lại phải đương đầu với cuộc xâm lược lần thứ hai của đế quốc Mông Cổ. Ngày 27-1-1285, quân Mông - Nguyên ngang nhiên phát động cuộc chiến với hàng chục vạn quân chia làm ba cánh tiến vào nước ta. Hội nghị Diên Hồng với tiếng thét trăm người như một đồng thanh hô “nên đánh” của các bô lão trong cả nước cùng bài Hịch tướng sĩ da diết của Trần Quốc Tuấn đã khích lệ toàn quân, dân Đại Việt. Cả nước sục sôi khí thế giết giặc, xuất hiện những bản bố cáo: “Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến, phải liều chết mà đánh, nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng” (4).

Lúc này, cùng với quân dân cả nước, nhân dân vùng Lỵ Nhân (Hà Nam ngày nay) cũng đã chuẩn bị chu đáo để bước vào một cuộc kháng chiến khốc liệt hơn. Trước thế mạnh của giặc, mặc dù quân đội nhà Trần đã đánh trả rất quyết liệt, song cuối cùng hai vua Trần (Thượng hoàng Trần Thái Tông và vua con Trần Nhân Tông) đã quyết định sáng suốt: rút khỏi kinh thành Thăng Long. Vua tôi triều Trần theo sông Thiên Mạc rút về vùng Thiên Trường (Nam Định). Trên đường rút chạy, quân ta dựa vào những cứ điểm quân sự tại các “chốt nước” ở vùng ngã ba sông để bố trí trận địa mai phục. Nhiều tấm gương hy sinh cao cả xuất hiện được sử sách ghi lại gồm cả những người con của quê hương Hà Nam cống hiến thân mình cho sự nghiệp giữ nước thời Trần. Trong đó có Trần Bình Trọng, hậu duệ của vua Lê Đại Hành. Sử chép về ông như sau: Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng: Vương là dòng dõi Lê Đại Hành, chồng sau của công chúa Thụy Bảo. Ông cha làm quan ở đời Thái Tông, được cho quốc tính là họ Trần, đánh nhau với giặc ở bãi Đà Mạc (tức Thiên Mạc, xã Châu Giang, huyện Duy Tiên) bị chết. Trần Bình Trọng bị địch bắt, không chịu ăn, giặc hỏi việc nước không trả lời. Hỏi: “Có muốn làm vương đất Bắc không?” Vương thét to: “Thà làm ma nước Nam chứ không làm vương đất Bắc!”.  Sau khi Bình Trọng bị giặc giết vào ngày 26-2-1285, vua Thái Tông được tin rất lấy làm thương xót, khóc mãi (1).

Trong cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên lần thứ hai, nhân dân vùng Hà Nam hăng hái đi theo vua quân nhà Trần đánh giặc, như Trần Duy Công, người đỗ thứ hai trong kỳ thi Đình, là người ở An Lão (huyện Bình Lục), Nguyễn Chung Công và Nguyễn Thành Công ở Bình Lục cùng hàng ngàn người dân vô danh khác. Vùng đất Hà Nam đương thời không chỉ là nơi cung cấp lương thực cho triều đình Trần và các tướng sĩ, mà còn là nơi quy tụ nghĩa sĩ bốn phương, tăng cường lực lượng bổ sung cho quân đội Trần sau những đợt chiến đấu ác liệt. Chính viên tướng A-ric-kha-ya trực tiếp tham gia cuộc chiến lần hai, đã viết thư báo về cho Hốt Tất Liệt (Khubilai): “Ở hai xứ Thiên Trường và Trường Yên mà Trần Nhật Huyên (vua Trần Nhân Tông) trốn đến, binh lực lại tập hợp”(2).

Vào tháng 5-1285, sau khi đã tập hợp lực lượng đầy đủ, lại nắm chắc tình hình quân giặc đã quá mỏi mệt, tinh thần binh lính giặc thoái chí, vua tôi nhà Trần quyết định tiến hành một cuộc phản công chiến lược. Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn cùng các tướng Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật dự định trước hết đánh vào các căn cứ của giặc dọc sông Hồng rồi tiến lên giải phóng Thăng Long. Trần Quốc Tuấn đã thân chinh đánh chiếm đồn A Lỗ. Theo những xác định gần đây, đồn A Lỗ của giặc Nguyên - Mông ở vào Tắc Giang, ngã ba sông Mang Giang (đã cạn từng phần) từ cầu Giẽ chảy qua vùng Hoà Mạc - Trác Bút (Châu Giang, huyện Duy Tiên) rồi đổ vào sông Hồng. Bên cạnh Tắc Giang có thôn Lỗ Hà (trong đó có xóm A Lỗ), xã Chuyên Ngoại, huyện Duy Tiên. Viên tướng Nguyên giữ đồn này là Vạn hộ Lưu Thế Anh phải bỏ đồn rút chạy. Đây là trận chiến mở màn cho hàng loạt trận chiến khác trong cuộc phản công giải phóng kinh đô, truy kích địch ra khỏi bờ cõi phía Bắc của Tổ quốc. Trận đánh đầu tiên trong hệ thống phòng tuyến dọc sông Hồng đã diễn ra trên vùng đất Hà Nam và giành được thắng lợi. Nó có ý nghĩa quan trọng, củng cố niềm tin chiến thắng của quân dân cả nước mà trước hết là những người dân địa phương Hà Nam đã góp công sức không nhỏ vào thắng lợi này. Mặt khác chiến thắng này còn làm cho kẻ thù run sợ, làm rung động cả hệ thống phòng tuyến dọc sông Hồng của kẻ địch.

Sau gần hai tháng phản công mãnh liệt trên khắp các chiến trường phía Nam sông Đáy, phía Bắc sông Hồng, quân dân Đại Việt đã giành được thắng lợi hoàn toàn, quét sạch quân Mông - Nguyên ra khỏi bờ cõi. Trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông - Nguyên lần thứ hai năm 1285, Hà Nam cùng với Nam Định, Ninh Bình trở thành căn cứ quân sự vô cùng quan trọng có tính chất quyết định thắng lợi toàn bộ cuộc kháng chiến và sự tồn tại của vương triều Trần. Cả vùng đất Hà Nam, Ninh Bình và Nam Định đương thời đã cưu mang, bảo vệ hai vua Trần cùng các tướng sĩ, bảo đảm cho sự thành công của cuộc kháng chiến.

Năm 1287-1288, quân Mông - Nguyên ngông cuồng lại tiếp tục xâm lược Đại Việt lần thứ ba. Lần này, các vua Trần lại rút lui khỏi Thăng Long, đưa triều đình cùng tướng sĩ về Thiên Trường rồi ra cửa biển Giao Hải. Các tướng giặc là Thoát Hoan, cùng Ô Mã Nhi đuổi theo các vua Trần hòng bắt sống, nhưng chúng không đuổi được. Bọn giặc tức tối, cho quân khai quật lăng mộ của Trần Thái Tông tại phủ Long Hưng (tỉnh Thái Bình), dân binh tại đây đã đánh trả quyết liệt. Tháng 4-1288, dưới sự chỉ huy tài tình của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, quân dân cả nước, trong đó có sự tham gia của nhân dân Hà Nam, đã đánh bại giặc Nguyên trên sông Bạch Đằng, đuổi sạch quân giặc ra khỏi bờ cõi, đất nước trở lại cuộc sống thanh bình.

Trong ba lần kháng chiến chống quân Mông - Nguyên xâm lược hồi thế kỷ XIII, quân và dân Hà Nam đã góp phần quan trọng vào chiến công chung của dân tộc. Với địa thế tự nhiên và tấm lòng yêu nước của người dân địa phương, Hà Nam đã trở thành căn cứ địa vững chắc, trở thành chiến trường - mồ chôn quân thù. Rất nhiều tấm gương anh dũng của con em Hà Nam trong các cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên được người đời sau coi là Thành hoàng, hương khói thờ tự. Đó là Lê Thị Liên ở Kim Bảng đã dùng thuốc nam kiếm được trên vùng đồi núi quê hương cứu chữa cho quân đội nhà Trần lúc lui về đây tránh địch. Dương Công Đán ở làng An Bài (xã Đồng Du, huyện Bình Lục), đã tập hợp dân binh, luyện tập đánh giặc. Khi quân Nguyên tràn vào làng An Bài cướp bóc, Công Đán mưu trí chỉ huy đội dân binh đánh cho bọn giặc thua chạy khỏi làng. Sau khi ông mất dân làng lập đền thờ. Đó còn là Minh Phúc đại vương, Minh Hải đại vương người huyện Kim Bảng, là Đông Bảng Phổ Tế đại vương người huyện Lý Nhân...

Ngoài ra còn có những vị tướng nổi tiếng trong đời Trần cũng được nhân dân Hà Nam ngưỡng vọng thờ tự. Trần Khánh Dư được thờ tại thôn Thượng (xã Duy Hải, huyện Duy Tiên) không chỉ bởi ông là võ tướng mà còn được coi là Thành hoàng vì đã khai hoang lập ấp, dạy dân dệt vải, ươm cá giống và đã mất tại nơi đây(1). Đặc biệt, nhiều đền thờ Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn được nhân dân Hà Nam lập tại nhiều địa phương, chứng tỏ dân chúng rất kính trọng và ngưỡng mộ tài đức song toàn của ông.

 

Danh sách các nhân vật thời Trần được thờ ở tỉnh Hà Nam

 

TT

Họ và tên

(nhân vật)

Nơi thờ

Ghi chú

Xã (làng, thôn)

Huyện

1

2

3

4

5

1

Trần Cảnh

Thành Thị (làng)

Bình Lục

 

 

Trần Thị Dung

Thành Thị (làng)

x

Như trên: x

2

x

Chân Ninh (làng)

x

 

3

Trần Hưng Đạo

Đa Hiếu (thôn)

x

 

 

x

Quốc (thôn)

x

 

 

x

Yên Lão (làng)

x

 

 

x

Đồng Du (làng)

x

 

 

x

Côi (thôn)

x

 

 

x

An Nội (thôn)

x

 

 

x

Phúc Tiến (thôn)

x

 

 

x

Xanh (thôn)

x

 

 

x

An Đề (thôn)

x

 

 

x

Bối Cầu (thôn)

x

 

 

x

Viễn Lai (thôn)

x

 

 

x

Trang Thượng (thôn)

x

 

 

x

Hưng Vượng (thôn)

x

 

 

x

Ngọc Lâm (thôn)

x

 

 

x

Thành Thị (thôn)

x

 

 

x

Cương (thôn)

x

 

4

Trần Thủ Độ

Thành Thị (làng)

x

 

5

Trần Khánh Dư

Dưỡng Hòa (thôn)

Duy Tiên

 

 

x

Lảnh Trì (thôn)

x

 

 

x

Nha Xá (thôn)

x

 

6

Trần Hưng Đạo

Bạch Xá (thôn)

x

 

7

Đặng Ma La

Yên Lệnh (thôn)

x

 

8

Trần Hưng Đạo

Khả Phong (thôn)

x

 

Nay thuộc

thị xã

Phủ Lý

 

x

Vân Châu (thôn)

x

 

x

Hòa Lạc (làng)

x

 

x

Thượng (thôn)

x

 

x

Nông Vụ (làng)

x

 

x

Lạt Sơn (làng)

x

9

Phạm Ngũ Lão

Lạt Sơn (làng)

x

 

10

Trần Hưng Đạo

Hạt Vĩ (làng)

Lý Nhân

 

 

x

Nhân Giả (làng)

 

 

 

x

Mão Cầu (làng)

 

 

 

x

Kinh Khê (làng)

 

 

 

x

Phú Khê (làng)

 

 

 

x

Đông Trữ (làng)

 

 

 

x

Đông Tự (làng)

 

 

 

x

Miễu (làng)

 

 

 

x

Trần Thương (làng)

 

 

11

Trần Hưng Đạo

Sơn Thông (thôn)

Thanh Liêm

 

 

Trần Quốc Tuấn

Tân Khai (phố)

T.X Phủ Lý

 

 

x

Liêm Thuận (xã)

Thanh Liêm

 

12

Trần Nhật Duật

Vạn Phúc (thôn)

x

 

13

Trần Triều An Sinh

Tân Khai

T.x Phủ Lý

-An Sinh Vương

14

Thượng Sĩ

Đỗ Xá (thôn)

x

- Tuệ Trung

 

x

Ngải Trì (làng)

Thanh Liêm

Thượng Sĩ

15

Chiêu Túc Vương

Trạch Mai

x

- Chưa rõ tên

 

d) Hà Nam trong kháng chiến chống Minh thời Hồ và trong khởi nghĩa Lam Sơn

Vương triều Hồ được thành lập năm 1400, đặt quốc hiệu là Đại Ngu với ý muốn xây dựng đất nước được thái bình, thịnh trị như thời vua Ngu Thuấn trong lịch sử cổ đại Trung Hoa. Nhưng triều Minh ở phương Bắc, cũng như mọi triều đại phong kiến Trung Hoa khác, luôn thường trực ý đồ xâm lược nước ta. Vào những năm đầu thế kỷ XV, triều Minh đã có nhiều hoạt động như cử các đoàn sứ thần sang thăm dò, liên hệ với các quan lại cũ của triều Trần có tư tưởng chống đối triều Hồ, chuẩn bị nội ứng. Mặt khác, chúng còn xúi giục vua Chiêm Thành quấy rối vùng biên cương phía Nam của Đại Ngu. Năm 1406, triều Minh còn sai sứ sang đòi đất Lộc Châu, lấy cớ đó là đất của chúng.

Trước tình hình cả hai phía Bắc, Nam đều có nguy cơ xảy ra chiến tranh, Hồ Quý Ly tiến hành hàng loạt biện pháp tăng cường lực lượng quân sự, như lập sổ hộ tịch, điểm số dân binh, bổ sung tráng đinh, đóng thuyền đinh sắt, lập thêm kho quân khí, đặt thêm các chức Thiên hộ, Bách hộ... Vào cuối năm 1405 đầu năm 1406, triều Hồ còn ra lệnh các địa phương tích cực chuẩn bị chống giặc, huy động dân binh đóng cọc gỗ chặn cửa sông Bạch Hạc, Phú Thọ; đắp thành Đa Bang (Tiên Phong - Sơn Tây).

Tháng 4 năm 1406, lấy cớ “phù Trần diệt Hồ”, triều Minh đem 10 vạn quân đưa tên ngụy vương Trần Thiêm Bình về nước, nhưng không đạt được kết quả. Tháng 10 năm 1406, nhà Minh lại đem 20 vạn quân chia làm hai cánh theo đường Lạng Sơn và Tây Bắc xâm lược nước ta. Đến đầu năm 1407, quân Minh vượt sông Hồng tấn công thành Đa Bang. Ngày 20-1-1407 thành Đa Bang thất thủ. Giặc Minh phá vỡ được tuyến phòng thủ, chúng tràn vào Thăng Long thẳng tay vơ vét, tàn phá. Quân triều Hồ do Tả tướng Hồ Nguyên Trừng chỉ huy tạm rút về vùng Hoàng Giang (nay thuộc tỉnh Hà Nam). Giặc Minh đưa quân chốt chặn ở cửa Lỗ Giang, bờ sông Mộc Hoàn (thuộc hạ lưu sông Hồng, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam hiện nay), đóng dinh trại đối diện với sông Hoàng Giang. Giặc Minh tấn công, Hồ Nguyên Trừng phải đem quân lui về vùng Muộn Hải (nay thuộc huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định), tiếp theo chạy về giữ vùng cửa biển Đại An (huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định). Sau đó, Nguyên Trừng chỉnh đốn, bổ sung thêm quân đến Hoàng Giang, quyết định mở cuộc tiến công quy mô lớn vào quân Minh. Song do phía giặc quá mạnh, nên quân ta vỡ trận, vua quan, tướng lĩnh triều Hồ phải chạy về Tây Đô, Thanh Hoá. Tháng 5-1407, giặc Minh tiến đánh Tây Đô, Hồ Quý Ly cùng triều thần phải tiếp tục chạy vào Nghệ An. Cha con Hồ Quý Ly cùng quan quân bị sa vào tay giặc.

Vào cuối tháng 6-1407, cuộc kháng chiến chống giặc do triều Hồ lãnh đạo hoàn toàn thất bại(1). Trong cuộc kháng chiến này, nhân dân Hà Nam đã được huy động góp sức người và sức của, ủng hộ quân dân đánh giặc. Cho đến nay, mới chỉ phát hiện một di tích có khả năng liên quan tới nơi đồn trú của quân đội nhà Hồ tại xã Thanh Thủy (huyện Thanh Liêm). Qua truyền thuyết, trong thời gian đóng quân tại đây, nhà Hồ đã tuyển mộ nhân dân địa phương vào quân đội, sau này khi cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược của Hồ Quý Ly thất bại, nhiều người tiếp tục tham gia khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi khởi xướng(2).

Sau khi triều Minh đặt ách thống trị lên nước ta vào năm 1407, chúng đã thi hành nhiều chính sách tàn bạo và thâm độc nhằm bóc lột về kinh tế, đồng hoá về chính trị và văn hoá. Nguyễn Trãi đã tố cáo tội ác mà giặc Minh gieo rắc trên quốc gia Đại Việt hồi thế kỷ XV:

Tát cạn nước Đông Hải, không rửa nhục hôi tanh,

Chặt hết trúc Nam Sơn, khó ghi đầy tội ác.

Có áp bức tất có đấu tranh. Ngay từ khi giặc Minh xâm lược nước ta, nhân dân nhiều nơi trên đất Đại Việt đã đứng lên khởi nghĩa. Tiêu biểu cho phong trào chống Minh đầu thế kỷ XV, là cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng. Cuộc khởi nghĩa Trần Ngỗi nổ ra vào tháng 11-1407, tại Yên Mô (Tam Điệp - Ninh Bình) được đông đảo mọi người tham gia. Tác phẩm văn vần lịch sử “Thiên Nam ngữ lục” đã mô tả: “Bốn phương chí sĩ tranh về như ong”. Những nhóm nghĩa quân của nhân dân vùng Hà Nam dọc bờ sông Sinh Quyết (đoạn sông Đáy chảy qua địa phận Hà Nam), hưởng ứng lời kêu gọi của cuộc khởi nghĩa, đã tụ tập lực lượng nổi dậy đánh giặc(1). Sau một thời gian hoạt động và phát triển, cuộc khởi nghĩa đã làm chủ được một vùng rộng lớn gồm các huyện của Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình. Trận chiến     Bô Cô cuối tháng 12-1408, là chiến thắng vang dội nhất của khởi nghĩa Trần Ngỗi, trong đó có sự tham gia tích cực của nhân dân vùng Hà Nam. Cuộc khởi nghĩa Trần Ngỗi kéo dài gần 3 năm (1407 - 1409), cuối cùng bị thất bại năm 1409.

Tinh thần kháng chiến của nhân dân Hà Nam và cả nước vẫn tiếp tục. Tháng 12 (âm lịch) năm 1412 (tức tháng 1 năm 1413 dương lịch), Nguyễn Liễu quê ở Lỵ Nhân đã chiêu tập nghĩa quân ở huyện Lục Na (Lục Ngạn, Bắc Giang), Vũ Lễ chống lại quân xâm lược Minh trong mấy năm(2).

Cuộc khởi nghĩa Trần Quý Khoáng (1409-1413), tiếp theo cũng bị giặc Minh dẹp tan. Các cuộc khởi nghĩa đầu thế kỷ XV, hầu hết đều do tầng lớp quý tộc tôn thất họ Trần khởi xướng, song vì năng lực hạn chế cũng như do mất đoàn kết nội bộ, nên đã không tập hợp được đông đảo quần chúng tham gia và không mở rộng được phạm vi ra toàn quốc. Nhưng dù bị thất bại, phong trào đấu tranh của nhân dân ta đầu thế kỷ XV, đã thể hiện tinh thần bất khuất chống xâm lược, quyết tâm giành lại độc lập cho cả dân tộc.

Đầu năm 1416, tại Lũng Nhai, một địa điểm gần Lam Sơn, Lê Lợi cùng với 18 nghĩa sĩ, tổ chức Hội thề kết nghĩa anh em, đồng tâm nhất trí dựng cờ khởi nghĩa chống giặc Minh(3).

Dưới sự lãnh đạo tài tình, có uy tín cao của Lê Lợi, cộng thêm bộ tham mưu sáng suốt, tài trí và được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã vượt qua những khó khăn khắc nghiệt của buổi ban đầu. Nghĩa quân vừa đánh giặc vừa xây dựng lực lượng, cuộc khởi nghĩa từng bước phát triển và trưởng thành vững chắc. Địa bàn hoạt động và ảnh hưởng của khởi nghĩa Lam Sơn dần dần lan rộng ra nhiều vùng miền địa phương trên toàn quốc.

Cũng như nhân dân các nơi, những người con ưu tú của Hà Nam hồ hởi tham gia khởi nghĩa với một trái tim nhiệt thành cho công cuộc giải phóng dân tộc. Đó là Vũ Cố ở Vũ Xá (xã Thanh Thuỷ, huyện Thanh Liêm). Từ lúc 9 tuổi Vũ Cố bị nhà Minh đưa về Trung Quốc, nhằm đào tạo trở thành tay sai cho bọn chúng. Khi về nước, ông từ bỏ hàng ngũ giặc, trở lại làng quê tổ chức hương binh chống Minh. Sau đó, ông đưa đội quân vào Lam Sơn tụ nghĩa, được Lê Lợi giao cho nhiệm vụ phụ trách việc tuyển binh và huấn luyện quân đội. Năm 1426, Lê Lợi mang đại quân ra Bắc, Vũ Cố dẫn đường đánh tan giặc tại Lỵ Nhân (Phủ Lý), tạo điều kiện thuận lợi cho quân ta tiến lên bao vây Đông Đô. Hiện nay tại các làng Vũ Giang, Ô Cách, Trung Thứ (huyện Thanh Liêm) vẫn còn đền thờ Vũ Cố. Thần tích, thần sắc cùng những câu chuyện truyền thuyết về Vũ Cố vẫn được lưu giữ trong dân gian(1). Hoặc chuyện về ba chị em Ả Đào quê Hà Nam đã dùng tiếng hát mê người của mình để làm vũ khí giết giặc. Đó còn là công tích của những người dân làng võ cổ truyền Liễu Đôi, tương truyền khi trên đường tiến đánh giặc Minh, đoàn quân khởi nghĩa của Lê Lợi có hành quân qua Liễu Đôi (huyện Thanh Liêm). Dân làng đã đi theo quân khởi nghĩa và lập công giết giặc bằng những miếng võ cổ truyền. Tại Liễu Đôi ngày nay vẫn còn một số ngôi mộ cổ của giặc xâm lược các đời nằm trên những cánh đồng, những quả đồi. Thành được gọi là thành giặc Ngô hoặc Quan thành còn những dấu tích trên cánh đồng thành, giữa hai xã Liêm Túc và Liêm Sơn (huyện Thanh Liêm), cách thành Cổ Lộng - nơi diễn ra trận đánh thắng quân Minh nổi tiếng - không đầy 6km. Tên gọi giặc Ngô cùng dấu tích, vị trí của thành có thể là một sự ghi nhớ về chiến công chống giặc Minh năm xưa của dân làng Liễu Đôi.

Khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống giặc Minh tàn bạo đã giành được thắng lợi, đất nước sạch bóng quân thù, non sông Đại Việt lại thanh bình yên vui. Trong chiến công chung giành lại độc lập dân tộc, nhân dân Hà Nam đã tham gia góp sức cùng với quân dân trong cả nước tạo thành một sức mạnh tổng hợp đánh tan giặc Minh.

2. Nhân dân Hà Nam phát huy truyền thống xây dựng quê hương trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục

Các vương triều từ Lý, Trần, Lê sơ đều rất quan tâm đến phát triển sản xuất nông nghiệp. Vương triều Lý ngay sau khi được thành lập, đã chú ý tăng cường sức lao động cho nông nghiệp. Năm 1010, Lý Công Uẩn đã hạ chiếu cho tất cả những người đào vong, phiêu bạt trở về nguyên quán(1). Vương triều Lý thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”, cho sáu quân về làm ruộng. Chính sách này vừa bảo đảm được yêu cầu của quốc phòng, vừa duy trì được lực lượng sản xuất nông nghiệp. Các vua triều Lý với nhiều chính sách và biện pháp cụ thể được thực thi như: bảo vệ sức kéo, đắp đê, tăng cường hệ thống thuỷ lợi... đã góp phần không nhỏ vào việc phát triển lực lượng sản xuất cũng như tăng thêm sản lượng thu hoạch của nhân dân thời kỳ này.

Sử sách từng chép về những mùa màng bội thu vào năm 1016 dưới triều vua Lý Thái Tổ, năm 1030, 1041 dưới triều vua Lý Thái Tông, các năm 1079, 1092, 1120... dưới triều vua Lý Nhân Tông. Có những năm được thu hoạch lớn, các vua Lý ra lệnh tha thuế hoặc xá thuế cho dân, như năm 1016, Lý Thái Tổ xá thuế 3 năm trong cả nước, năm 1044 vua Lý Thái Tông xuống chiếu “xá cho thiên hạ một nửa tiền thuế năm nay, để yên ủi sự khó nhọc” (2).

Các vua Lý thường xuyên chú ý tới vùng đất Hà Nam - một trong những nơi cung cấp lương thực trực tiếp cho triều đình. Triều Lý đã từng cho lập hành cung ở phủ Lỵ Nhân, cả trên núi Đọi (Long Đội sơn)(3) để đôn đốc việc cày cấy. Thông qua tìm hiểu ghi chép của thư tịch cổ, kết hợp với việc điều tra điền dã tại địa phương, các nhà nghiên cứu đoán định hành cung Lợi Nhân xưa có thể chính là nơi dựng đình Ba Thôn thuộc thôn Lý Nhân (xã Phú Phúc, huyện Lý Nhân) hiện nay(1). Các vua triều Lý luôn luôn quan tâm đến sản xuất nông nghiệp của toàn quốc cũng như của riêng Hà Nam. Bất kỳ vào thời gian nào, vào đầu xuân, mùa hè hay thậm chí những ngày đông giá rét, các vua Lý cũng đều trực tiếp xuống thị sát công việc đồng áng của Hà Nam. Sử từng chép: Tháng 10, mùa đông năm 1137, vua Lý Thần Tông đi Lợi Nhân, xem xét dân gặt lúa... Mùa xuân năm 1148, nhà vua Lý Anh Tông xem xét dân cày ruộng...

Vùng Hà Nam khi đó cũng được các vua Lý chọn làm nơi tiến hành nghi lễ tịch điền tiếp nối hình thức tôn trọng nông nghiệp của triều Tiền Lê tại Núi Đọi. Tháng 2 mùa xuân năm 1148, vua Lý Anh Tông thân chinh đi cày ruộng tịch điền tại Lợi Nhân. Thời Lý đã xuất hiện điền trang của các tôn thất, vương phi, công chúa, song số lượng không nhiều, mặt khác diện tích của các điền trang này, có lẽ cũng không lớn lắm. Làng Vọc tên gọi của làng Quắc Hương, thái ấp của Trần Thủ Độ, vốn là khu vực cai quản cũ của một công chúa nhà Lý là một thí dụ về điền trang nhà Lý được khẩn hoang, xây dựng trên vùng đất Hà Nam(2).

Ngay từ khi thay nhà Lý quản lý đất nước, vương triều Trần đã bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế của Đại Việt. Nhà Trần tiến hành điều tra dân số, lập sổ đinh phân chia, ruộng đất và định mức tô thuế hàng năm. Dưới thời Trần đất ruộng bỏ hoang còn nhiều, do vậy nhằm phát triển, mở rộng diện tích đất canh tác, triều Trần chủ trương khai hoang các vùng ven sông, ven biển.

Thời Trần với chính sách phong cấp thái ấp cho các vương hầu, quý tộc đã tạo cho nhiều vùng trong đó có Hà Nam có sự đổi mới lớn về kinh tế(3).

Hà Nam đời Trần có các thái ấp của các quý tộc cao cấp như thái ấp Quắc Hương (thôn Thành Thị, xã Vũ Bản, huyện Bình Lục) của Thái sư Trần Thủ Độ, thái ấp Dưỡng Hòa (xã Duy Hải, huyện Duy Tiên) của Trần Khánh Dư. Chính những thái ấp, đã tạo cơ sở cho nông nghiệp trong vùng phát triển mạnh mẽ. Lúc này trên nguyên tắc, chủ thái ấp có quyền thu thuế trong thái ấp của mình, song để khuyến khích người lao động tích cực sản xuất, mức thuế thường được giảm nhiều so với mức thuế của nhà nước. Quy mô của các thái ấp tương đối rộng, như thái ấp của Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư tại làng Dưỡng Hoà (xã Duy Hải, huyện Duy Tiên), toàn bộ diện tích là 307 mẫu, ruộng đất chiếm 1.250 mẫu, trong đó có 10 mẫu ruộng tế tự. Hiện còn các địa danh mang tên “thôn phố” trại Ngựa, chợ Ngọc, trại Voi, trại lính...(1). Có thể nhận thấy, thái ấp, điền trang thời Trần đã trở thành một đơn vị kinh tế độc lập. Người chủ thái ấp, điền trang tạo điều kiện thuận lợi cho các gia nô, những người lao động trong đó được hưởng cuộc sống dễ chịu. Thần tích Trần Nhật Hạo do Nguyễn Bính soạn năm 1572, chép: “Tướng quốc thu thuế nhẹ... nhân dân đều cảm phục biết ơn”(2).

Chính do những chính sách khuyến nông, khai hoang, cải tạo hệ thống thuỷ lợi, đào sông, lấn biển, bảo vệ sản xuất của nhà nước Trần, mà cả một vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Cả rộng lớn đã trở thành nơi sản xuất nhiều lúa gạo. Sứ giả nhà Nguyên là Trần Phu, khi sang nước ta, trong bài thơ An Nam tức sự cũng đã phản ánh tình hình mùa màng của Đại Việt như sau: “Lúa mỗi năm chín bốn lần, tuy vào giữa mùa đông mà mạ vẫn mườn mượt ”(3).

Chính sách đô hộ về chính trị, bóc lột về kinh tế của triều Minh và cuộc kháng chiến chống xâm lược đã tàn phá nghiêm trọng nền kinh tế Đại Việt vốn đã rệu rã trong thời kỳ cuối Trần. Các vị vua triều Lê sơ đã chú trọng phục hồi và phát triển kinh tế đất nước. Ngay từ những năm vừa giành độc lập, vua Lê Thái Tổ đã cho 25 vạn binh lính về làm ruộng, đồng thời kêu gọi nhân dân phiêu tán trở về quê cũ, cùng nhau khôi phục lại sản xuất, xây dựng lại xóm làng.

Đặc biệt, vương triều Lê đã quan tâm đến việc bảo vệ và khuyến khích phát triển nông nghiệp. Ruộng đất được chia làm 3 bộ phận chính, gồm ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước, ruộng đất công làng xã, ruộng đất tư hữu. Trong đó ruộng đất của quân Minh và tay sai và những điền trang thái ấp của các quý tộc Trần ở các nơi như Quắc Hương, Dưỡng Hoà thuộc Hà Nam đều được chính quyền triều Lê thu lại và phân một phần cho công thần hay quan lại. Đầu thời Lê, nhà nước đã đặt vấn đề phân chia ruộng công làng xã vốn có nguồn gốc từ xa xưa cho người nghèo, binh lính không có ruộng. Để thống nhất việc phân chia ruộng công trong toàn quốc, vua Lê Thánh Tông thực hiện chế độ quân điền. Theo phép quân điền, cứ 6 năm ruộng công làng xã được chia lại một lần cho các thành viên trong xã. Ruộng đất tư hữu phát triển từ các thế kỷ trước. Đến thế kỷ XV, ruộng đất tư hữu của giai cấp địa chủ càng lớn, lấn át ruộng đất công. Vương triều Lê còn chú ý việc mở rộng diện tích canh tác như khuyến khích khai khẩn đất bồi ven biển, quai đê lấn biển...

Trong thời kỳ nhà Lê, hàng loạt các làng mới được thành lập, nhất là tại các vùng ven biển của Sơn Nam, Thanh Hoá, Nghệ An... Hệ thống thuỷ lợi trong toàn quốc được chú ý phát triển, có cả một tuyến đê biển dài mang tên đê Hồng Đức. Việc thực hiện hàng loạt các chính sách trọng nông, khuyến khích nông nghiệp như vậy, đã khiến cho sản lượng nông nghiệp tăng nhanh. Sản xuất nông nghiệp cũng như kinh tế của Hà Nam dưới triều Lê cũng được phát triển. Lê Thánh Tông, một vị vua tài giỏi, thường xuyên quan tâm tới đời sống dân chúng, đã nhiều lần đi kinh lý, thị sát thực tế của nhân dân Hà Nam. Những vần thơ Lê Thánh Tông viết về Hà Nam phần nào đã phản ánh thực tế đời sống và cảnh đẹp của sông núi cùng con người Hà Nam trong thời kỳ nhà Lê. Trong bài “Lỵ Nhân nữ sĩ”, Thánh Tông viết (dịch nghĩa):

Con trai, con gái ở Lỵ Nhân

Trên đê cao, mùa xuân tới gần, vẫn gió mưa lạnh lẽo,

Con gái ở đây đẹp như con gái nước Tần, nước Yên cười nói chuyện trò vui vẻ.

Trước cảnh muôn hồng ngàn tía, toả mùi thơm ấm áp bên bờ suối ấy,

Thế mà bọn con trai, vẫn như đàn ong bay đi chơi, vô tình chẳng hề để ý tới.

Từ thế kỷ XI đến XV, bên cạnh việc phát triển nông nghiệp, các ngành tiểu thủ công nghiệp của Hà Nam cũng được chú ý đẩy mạnh. Đặc biệt vào thời Lý nghề chạm đá, xây dựng và kiến trúc phát triển mạnh nhất. Hàng loạt ngôi chùa, tháp, bia đá xuất hiện tại các địa phương Hà Nam. Tiêu biểu nhất là chùa tháp Sùng Thiện Diên Linh đã bị giặc Minh phá huỷ, chỉ còn tấm bia với tiêu đề: Đại Việt quốc Lý gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi, thường được gọi tắt là Bia Sùng Thiện Diên Linh, hiện còn đặt tại nhà bia trước chùa Long Đọi, thuộc xã Đọi Sơn (huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam). Nội dung bia cho biết: khi vua Lý Nhân Tông về thăm núi Đọi năm 1118, đích thân nhà vua xem xét địa thế, thấy hợp, vua cho mời thầy địa lý, thợ mộc, thợ đo vẽ, thợ đẽo đá, thợ đúc chuông và thợ tạc tượng làm trong 4 năm (1118 - 1121) mới hoàn thành ngôi chùa tháp này. Tháp xây cao 13 tầng, tầng trên đặt hộp xá lỵ, tầng dưới chia tám tướng khôi ngô... Đây là một công trình kiến trúc Phật giáo lớn rất có giá trị mà vương triều Lý, cùng với sự đóng góp không nhỏ của thợ thủ công các ngành nghề Hà Nam trong thế kỷ XII, tạo dựng nên.

Đến thời Trần, các ngành thủ công của Hà Nam được phát triển mạnh mẽ. Nghề dệt của vùng Nha Xá (huyện Duy Tiên) vẫn được duy trì. Nghề làm gốm tại khu thái ấp Quắc Hương của Trần Thú Độ cũng tiếp tục được nâng cao hơn đời Lý. Hàng loạt loại bát đĩa chất liệu thô, trang trí hoa văn giản đơn, men không bóng đã được phát hiện, chứng tỏ đồ gốm thời Trần đã được đưa vào phục vụ rộng rãi đời sống xã hội của Hà Nam. Các nghề thủ công khác như chạm đá, khắc bia, nghề mộc cũng được quan tâm và có tiến bộ. Sang thời Lê thủ công nghiệp được phát triển toàn diện hơn. Hệ thống chợ được chú trọng đặc biệt, đã mở rộng hơn trước nhiều, đáp ứng nhu cầu trao đổi hàng hoá, tiêu dùng sản phẩm thủ công nghiệp của xã hội ngày một cao.

Do chính sách khuyến khích mở chợ ở nông thôn thời kỳ Lê Thánh Tông, số lượng chợ khắp châu thổ Bắc Kỳ được gia tăng. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu, “Vào đầu thế kỷ XV đã có 38 chợ ở trung tâm châu thổ xứ Bắc Kỳ và 50 chợ khác ở các miền đất khác Năm 1477, triều Lê đã có quy định lệ lập chợ mới: “Các huyện, châu, xã, ở các xứ trong nước, nhân dân ngày một nhiều, nơi nào muốn chia mở chợ mới để tiện mua bán thì quan phủ, huyện, châu khám xét quả thực tiện lợi cho dân thì làm bản tâu lên, cho theo tiện lợi mà lập chợ”(2).

Vùng Hà Nam là một trong những vùng có nhiều làng xã, có nhu cầu giao lưu hàng hoá thường xuyên nên số lượng chợ cũng do vậy mà được phát triển. Một số mặt hàng thủ công của Hà Nam thông qua việc giao lưu đã trở thành những sản phẩm được các nơi ưa chuộng. The tại huyện Kim Bảng thời Lê là một mặt hàng nổi tiếng vùng Hà Nam và các địa phương quanh vùng. Nguyễn Trãi đã từng viết trong tác phẩm Dư địa chí từ thế kỷ XV: “The lụa xứ Sơn Nam bền, chắc, đẹp mà nổi tiếng(1). Nghề chạm đá, chạm khắc kim khí như đồng, kiến trúc... cũng để lại dấu ấn trên những hiện vật, như quyển sách đồng có niên đại tuyệt đối 1471, phát hiện tại thôn Văn An (xã Bắc Lý, huyện Lý Nhân), hay nhang án bằng đá khối tại chùa Đặng Xá (xã Văn Xá, huyện Kim Bảng), cây hương đá chùa Khánh Long (xã Châu Giang, huyện Duy Tiên)...

Giáo dục thi cử ở Hà Nam được phát triển từ thế kỷ XI - XV. Đặc biệt vào thời vua Lê Thánh Tông, giáo dục khoa cử rất thịnh đạt với những quy định khuyến khích học phong và nêu cao vai trò của kẻ sĩ - trí thức. Chỉ tính riêng dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497), cũng đã mở được 12 khoa thi Hội, lấy đỗ 501 Tiến sĩ, trong đó có 9 Trạng nguyên. Với chính sách mở cửa trong học tập, thi cử của triều Lê mà Hà Nam đã xuất hiện nhiều người đỗ đạt cao và ra làm quan, có điều kiện mang sở học của mình ra phụng sự quốc gia. Theo thống kê từ các sách khoa bảng (có thể chưa chi chép đầy đủ), đã có 11 Tiến sĩ (trong đó có 2 Hoàng giáp) người Hà Nam vinh quy trong thế kỷ XV. Nguyễn Khắc Hiếu người huyện Bình Lục, Trần Thuấn Du người huyện Duy Tiên, cả hai đều đỗ Tiến sĩ khoa Minh kinh, kỳ thi đầu tiên được tổ chức dưới thời Lê Thái Tổ. Nguyễn Khắc Hiếu làm quan tới chức Hàn Lâm viện Trực Học sĩ. Trần Thuấn Du (sau đổi họ thành Trình Thuấn Du), từng giữ chức Hàn Lâm viện Thừa chỉ, làm Chánh sứ trong đoàn sứ bộ sang Trung Quốc, đã cùng Nguyễn Trãi tham gia giảng dạy cho Thái tử....

Bên cạnh việc giáo dục khoa cử theo mô hình Nho giáo được chú ý đẩy mạnh, thì giáo dục làng xã với các hình thức hương sư, gia sư cũng bắt đầu được phát triển. Dòng văn học chữ Nôm cũng đã phát triển bước đầu cùng với dòng văn học chữ Hán mà đại biểu là vua Lê Thánh Tông. Ông để lại nhiều tác phẩm bàng chữ Hán và cả chữ Nôm về các di tích, danh thắng của Hà Nam, nơi ông từng đi qua. Khi qua miếu thờ người thiếu phụ Nam Xương, hay lúc vãn cảnh núi Nam Công huyện Thanh Liêm, Lê Thánh Tông đều xúc cảm để lại những bài thơ Nôm với những áng thơ lời hay ý đẹp(1).

Các sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng thế kỷ XI - XV ở Hà Nam cũng có những bước hưng khởi. Phật giáo thế kỷ XI - XII được chú ý. Chùa Đọi (Long Đọi Sơn tự) đã trở thành một trong những trung tâm Phật giáo lớn của Đại Việt. Bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh tại chùa Đọi được hoàn thành năm 1122. Vua Lý Nhân Tông đã cho tổ chức lễ hội để chào mừng việc khánh thành tháp. Sách Đại Việt sử kỷ toàn thư chép: “Tháng 3, ngày Mậu Dần (1122), mở hội khánh thành Bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh ở núi Đọi”(1). Nhiều người dân Hà Nam đã trở thành những đệ tử sùng tín đạo Phật, như việc ông bà Lê Sĩ Tiến, người thôn Giáp Nhị, cúng 5 sào ruộng vào chùa được ghi trên bia chùa Đọi.

Dấu ấn Phật giáo đời Trần được in đậm trên những công trình kiến trúc tại Hà Nam, hiện còn lưu lại một số ít di vật có liên quan tới các ngôi chùa thời Trần. Đó là tấm bia họ Ngô có niên hiệu Đại Trị (1358 - 1369) thời vua Trần Dụ Tông (1341 - 1369). Nội dung tấm bia cho biết có ông Ngô Lãm, được vua ban hiệu “Ngộ không cư sĩ”, năm Hưng Long thứ 12 (1304), họ Ngô đưa hài cốt của viên Đại sa môn đến táng ở khu núi đất. Cuối cùng là họ tên những người cung tiến ruộng, tiền của vào chùa, trong đó có nhiều người của các địa phương Hà Nam như bà Lê Thị Đám, Đông điện thư hoả dũng thủ Phan Cương và vợ là bà Phạm Thị An (người xã Đinh Xá), Dương Thị Nương (xã Ngô Xá); xã Chân Ninh có Trưởng họ chức Man Dực đô Phạm [Văn] Mã, Nguyễn Cán... Đặc biệt mặt trước bia có chạm hình người đàn ông đội mũ bình thiên, ngồi trên một chiếc ngai(2). Tại làng Trì Xá (xã Châu Giang, huyện Duy Tiên), còn lưu lại hai mảng chạm đầu chim Garuđa bằng đá trước bệ thờ của Phật điện. Điều này chứng tỏ kiến trúc Phật giáo của chùa Trì Xá sớm nhất cũng đã có từ thời Trần. Những ghi chép của thư tịch cùng những di vật hiện còn, cho phép chúng ta khẳng định: Ảnh hưởng của Phật giáo ở Hà Nam thời Trần tương đối sâu đậm. Nho giáo vào thế kỷ XV, được nâng lên địa vị thống trị làm nền tảng của tư tưởng xã hội. Mô hình quản lý xã hội v.v... vào trong các làng xã Hà Nam. Truyền thống làng xã và quy định về luân thường đạo lý của Nho giáo được kết hợp có chọn lọc, trên một mức độ nhất định đã phát huy được hiệu quả.

IV. HÀ NAM TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX

1.Nhân dân Hà Nam với các cuộc khởi nghĩa nông dân trong thời kỳ XVI - XIX

Sau gần một thế kỷ phát triển tương đối thịnh trị, đến đầu thế kỷ XVI, nhất là từ sau khi Lê Túc Tông mất (1504), xã hội Đại Việt lâm vào tình trạng khủng hoảng, kinh tế sa sút, đời sống nhân dân cực khổ, các thế lực phong kiến nổi lên tranh giành quyền lực. Lợi dụng tình hình hỗn loạn, xung đột bè phái trong triều, bằng tài năng cùng thủ đoạn chính trị, Mạc Đăng Dung đoạt được ngôi vị từ triều Lê, lập nên vương triều Mạc vào năm 1527. Dưới triều Mạc, vùng đất Hà Nam thuộc Sơn Nam thượng. Trong thời gian nhà Mạc trị vì tại Thăng Long (1527 - 1592), nhiều quan lại cũ của triều Lê đã phản ứng quyết liệt, hàng chục cuộc bạo động chống triều Mạc đã nổ ra.

Trận chiến đầu tiên giữa hai tập đoàn phong kiến Mạc và Trịnh diễn ra ở Hà Nam vào đầu năm 1531. Lúc này, Nguyễn Kim đang mượn danh nghĩa vua Lê để tập hợp lực lượng chống Mạc, đưa quân từ Thanh Hoá ra chiếm đất vùng Gia Viễn (tỉnh Ninh Bình). Đến tháng 8 năm đó, lợi dụng nước các sông Bôi, sông Hoàng Long dâng cao nhà Mạc dùng thuyền bao vây và tiêu diệt các cứ điểm đóng quân của Nguyễn Kim. Bị quân Mạc đánh cho tan tác, Nguyễn Kim phải chạy sang Lào lánh nạn một thời gian(1). Năm 1546, Nguyễn Kim dựng lên một triều đình mới tại Thanh Hoá, thường gọi là Nam triều. Triều Mạc chiếm giữ vùng Thăng Long đến hết đất Ninh Bình, gọi là Bắc triều. Hà Nam khi đó vẫn là khu vực do Bắc triều quản lý.

Loạn phân tranh hay chiến tranh Nam Bắc triều kéo dài tới gần nửa thế kỷ (1546 - 1592), gần 40 cuộc hỗn chiến tương tàn xảy ra, gây nhiều tổn thất, hy sinh cho nhân dân nhiều vùng, trong đó Hà Nam là một địa phương hứng chịu nhiều thiệt hại. Liên tiếp trong những năm 1552, 1557, 1569, các chúa Trịnh nhiều lần đưa hàng vạn quân ra đánh chiếm vùng Lỵ Nhân (Hà Nam), Thiên Trường (Nam Định), Trường Yên (Ninh Bình), biến cả vùng này trở thành bãi chiến trường đẫm máu. Không ít con em người dân Hà Nam phải phơi thây trên chính mảnh đất đã nuôi sống mình từ thuở ấu thơ. Sau nhiều lần Nam triều bị thua, nội bộ lục đục, thì Bắc triều lại tiến đánh Nam triều. Chỉ tính riêng hơn 10 năm từ 1570 - 1583, triều Mạc đem quân đánh vào vùng Thanh - Nghệ trở vào tới 13 lần, tính trung bình cứ một năm lại có một trận đánh, biến vùng bờ biển từ Thanh Hoá đến Thuận Hoá thành chiến trường. Cuộc sống dân tình khổ cực, có những lúc già trẻ của vùng này phải bồng bế nhau chạy tan tác, cảnh người chết đói rất nhiều. Năm 1592, cuộc nội chiến Nam - Bắc triều kết thúc bằng việc triều Lê - Trịnh chiếm lại được Thăng Long, triều Mạc chạy về Dương Kinh (Hải Dương), sau chạy lên Cao Bằng ẩn náu, kéo dài được hơn 70 năm nữa.

Tình trạng nội chiến Nam - Bắc triều chấm dứt chưa được bao lâu thì lại nổ ra sự phân chia Đàng Trong và Đàng Ngoài với cuộc chiến tranh ác liệt giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn. Cuộc sống của nhân dân Hà Nam vốn đã nghèo khổ, túng đói trong thời kỳ chiến tranh Trịnh - Mạc thì nay lại phải chịu đựng thêm gánh nặng của cuộc tranh giành quyền lực của Trịnh - Nguyễn. Các làng xã nông thôn Hà Nam chịu chung cảnh tiêu điều, nông dân bỏ làng, đồng ruộng, tha hương nơi đất khách quê người. Theo thống kê, năm 1730 Đàng Ngoài có 527 làng xã cư dân bị phiêu tán gần hết. Năm 1741, con số này lên tới 3.691. Đến cuối thế kỷ XVIII, trong tổng số 11.767 làng xã thuộc các trấn ở vùng đồng bằng (bao gồm cả Hà Nam) và Thanh - Nghệ, vẫn còn 1.488 làng xã bị phiêu tán(1).

Cùng với nhân dân các địa phương trong cả nước, nhân dân đạo (hay lộ) Sơn Nam đều đồng lòng nổi dậy theo ngọn cờ tụ nghĩa của các thủ lĩnh trong vùng chống lại ách áp bức của chính quyền phong kiến Lê - Trịnh. Năm Bính Thân, niên hiệu Quang Hưng thứ 19 của vua Lê Thế Tông (1596), cuộc khởi nghĩa nông dân đầu tiên do Phạm Hàng lãnh đạo nổ ra tại Sơn Nam. Sử cũ chép: “Tháng 11, mùa đông năm 1596, Phạm Hàng ở Sơn Nam nổi loạn”. Phạm Hàng vốn là người huyện Đại An (nay là huyện Nghĩa Hưng), xứ Sơn Nam, tập hợp lực lượng khởi nghĩa quanh vùng. Sau đó, Phạm Hàng đem quân chiếm núi Đam Khê, nay thuộc xã Ninh Vân (huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình) xây dựng căn cứ địa. Phạm Hàng tự xưng là Thiên Nam chiêu thảo Đô nguyên soái, chỉ trong thời gian hơn một tháng hoạt động, đã thu hút được hàng vạn người tham gia khởi nghĩa, trong số đó có nhiều người của phủ Lỵ Nhân. Sử cũ phải công nhận thanh thế lớn và ảnh hưởng sâu rộng của cuộc khởi nghĩa lớn và có ảnh hưởng sâu rộng trong vùng Sơn Nam: “...Trong vòng hơn một tháng, được số quân kể hàng vạn người. Các phủ Trường Yên và Lỵ Nhân trộm giặc nổi lên hàng đàn để hưởng ứng với Phạm Hàng”(1). Với lực lượng đông đảo nhân dân ủng hộ, nghĩa quân đã tiến hành nhiều trận công kích vào các cứ điểm của tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh đóng rải rác tại các vùng trong lộ Sơn Nam. Triều đình hoảng sợ, chúa Trịnh Tùng phải sai Mĩ Quận công Bùi Văn Khuê cùng Lương Quận công Nguyễn Thể kết hợp với viên thổ quan huyện Yên Mô mang theo một lực lượng quân đội lớn mới dẹp yên được. Tuy cuộc khởi nghĩa của Phạm Hàng bị thất bại nhanh chóng, nhưng nó để lại một ảnh hưởng vang dội trong vùng.

Đây là cuộc khởi nghĩa nông dân đầu tiên nổ ra tại vùng hạ lưu châu thổ sông Hồng, thu hút được đông đảo nông dân nghèo khổ tham gia, bước đầu làm rung động hệ thống chính quyền phong kiến cấp cơ sở khiến chính quyền Trung ương Lê -Trịnh phải ra tay ngăn dẹp. Nhưng cuộc khởi nghĩa này có ý nghĩa quan trọng hơn ở chỗ: Nó báo hiệu về cơn bão táp của phong trào nông dân cả nước nói chung và của vùng Sơn Nam nói riêng sẽ diễn ra quyết liệt trong những thế kỷ XVII-XVIII.

Vào những năm 40 và 50 của thế kỷ XVIII, hàng loạt cuộc khởi nghĩa lớn bùng lên ở nhiều nơi, tập trung nhất ở vùng Hải Dương, Sơn Nam... đều được sự ủng hộ nhiệt thành của nhân dân vùng Sơn Nam. Sử chép: “Lúc ấy, về mặt Hải Dương có bọn Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ ở Ninh Xá, Vũ Trác Oánh ở Mộ Trạch; về mặt Sơn Nam có Hoàng Công Chất... hết chỗ này đến chỗ khác thúc giục nhau phiến động, chỗ nào cũng tự dấy quân... Dân ở vùng đông vùng nam, người đeo bừa, người vác gậy đi theo, chỗ nhiều có đến hơn vạn... vây đánh các ấp thành, triều đình không ngăn nổi” (2).

Nhiều trận đánh quyết liệt giữa triều đình Lê - Trịnh và nghĩa quân của Lê Duy Mật, Đoàn Danh Chấn, Nguyễn Hữu Cầu, Hoàng Công Chất diễn ra trên vùng đất phủ Lỵ Nhân. Đặc biệt vào năm 1751, lực lượng quân sự kết hợp giữa Nguyễn Hữu Cầu với Hoàng Công Chất tập trung đánh nhiều trận tiêu diệt quân triều đình tại sông Mã Não (huyện Kim Bảng), sông Hương Nhi (huyện Bình Lục). Rất nhiều con em vùng đất Bình Lục, phủ Lỵ Nhân đã tích cực tham gia với vai trò là những nghĩa binh thông thạo đường đi lối lại. Nhân dân các làng xã Hà Nam khi đó cung cấp lương thực, thực phẩm và các phương tiện vật dụng khác cho nghĩa quân chống lại quan quân triều đình.

Phong trào khởi nghĩa nông dân bùng lên tại Đàng Ngoài trong các thế kỷ XVII-XVIII, đã kéo dài liên tục hàng chục năm, lôi cuốn được hàng chục vạn nông dân ở khắp các nơi từ rừng núi đến ven biển và toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ tham gia. Tuy cuối cùng các cuộc khởi nghĩa đều không giành được thắng lợi, “nhưng đã là hồi chuông báo động cuộc khủng hoảng của chế độ phong kiến Đàng Ngoài... cùng với sự đổ vỡ nghiêm trọng của nhà nước Lê - Trịnh, nó chuẩn bị mảnh đất thuận lợi cho thắng lợi to lớn của phong trào nông dân Tây Sơn sau này”(1).

Năm 1771, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ cùng nhau khởi xướng cuộc khởi nghĩa tại vùng đất Tây Sơn (huyện Phù Ly, phủ Quy Nhơn thuộc dinh Quảng Nam). Trong một thời gian ngắn, với nhiều hình thức vận động, được sự ủng hộ và hưởng ứng của các tầng lớp nhân dân, lực lượng nghĩa quân đã tăng lên đáng kể. Dưới sự lãnh đạo khôn khéo, tài tình của ba anh em họ Nguyễn, nghĩa quân đã tiến đánh nhiều cứ điểm quân sự của chúa Nguyễn và thu được thắng lợi. Vào những năm 1782, 1783, quân Nguyễn Ánh bị thất bại nặng nề phải chạy sang Xiêm (Thái Lan) lẩn tránh và cầu viện ngoại bang. Sau chiến thắng quân Xiêm năm 1785, tại Rạch Gầm - Xoài Mút, Nguyễn Huệ tiếp tục hạ thành Phú Xuân và chuẩn bị đến năm sau kéo quân ra Bắc. Ngày 21-7-1786, đại quân của Nguyễn Huệ tiến vào Thăng Long, chính quyền họ Trịnh bị lật đổ. Cuối năm 1787, Nguyễn Huệ cử Ngô Văn Sở, Vũ Văn Nhậm đưa quân ra Bắc để tiêu diệt phản loạn Nguyễn Hữu Chỉnh. Sau đó Nguyễn Huệ lại ra Bắc để bắt giết Vũ Văn Nhậm về sự lộng quyền và thu nhận, trọng dụng một số quan lại, trí thức tiến bộ Bắc Hà như Ngô Thời Nhậm, Phan Huy ích...

Vua tôi Lê Chiêu Thống trốn thoát khỏi sự truy lùng của nghĩa quân, chạy sang Quảng Tây cầu cứu nhà Thanh. Tháng 11 năm 1788, Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị kéo 29 vạn quân Thanh, chia làm 4 đạo tiến binh vào nước ta. Quân ta tạm thời rút lui về đóng giữ tại Tam Điệp - Biện Sơn (tỉnh Ninh Bình). Cùng với nghĩa quân Tây Sơn, nhân dân các vùng xung quanh Tam Điệp - Biện Sơn tích cực tham gia vào việc xây dựng một chiến tuyến vững chắc ngăn chặn quân thù tiến vào Nam, đồng thời để chuẩn bị địa bàn tập kết và căn cứ xuất phát cho cuộc phản công sau này.

Nhân dân Hà Nam cùng phấn khởi với niềm vui chung được đóng góp công sức vào công việc chuẩn bị, đã tự nguyện mang thóc gạo, cùng những nguyên vật liệu có trong nhà như tre, gỗ... để xây dựng phòng tuyến. Đặc biệt trai tráng ở các làng xã phủ huyện Hà Nam không quản ngại ngày đêm, vượt sông, suối gia nhập quân ngũ. Dân chúng sống trong phủ Lỵ Nhân còn thông báo lực lượng quân đội, cách bố phòng, quy luật đi lại của quân địch đóng tại đồn Lỵ Nhân cho quân tình báo của Viễn Mưu hầu Đinh Huy Đạo và Trần Đức Vi (hay Huy). Nhờ vậy, nghĩa quân Tây Sơn nắm rất chắc mọi động tĩnh của quân địch trong đồn và có những đối phó kịp thời(1).

Ngày 17 tháng 12 năm 1788, dưới sự dẫn đường và nội ứng của tàn quân Lê Chiêu Thống, Tôn Sĩ Nghị đã chiếm đóng Thăng Long. Để phòng thủ Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị cho nhiều đạo quân đóng chốt tại những nơi quan trọng, như đạo quân của Sầm Nghi Đống đóng giữ tại Khương Thượng (nay thuộc địa phận của quận Đống Đa, Hà Nội), Ô Đại Kinh đóng tại Sơn Tây, còn đạo quân của chính Tôn Sĩ Nghị lại đóng đại bản doanh tại cung Tây Long (bên bờ sông Hồng)(2). Tôn Sĩ Nghị còn lo phòng thủ quân Tây Sơn tiến theo con đường thiên lý Bắc Nam sẽ qua Tam Điệp, Ninh Bình, Hà Nam, vào Thăng Long. Do vậy y cho lập nhiều đồn luỹ liên tiếp ở Ngọc Hồi (Thường Tín, Hà Tây), Nhật Tảo (Duy Tiên, Hà Nam), bờ Bắc sông Nguyệt Quyết (Thanh Liêm, Hà Nam)(3).

Nhân dân Hà Nam vốn đã căm giận trước hành động tập đoàn phong kiến Lê Chiêu Thống nhẫn tâm “rước voi về giày mả tổ”, gây bao cảnh đau khổ cho dân chúng, nay lại chứng kiến những đồn lũy của kẻ thù dựng ngay trên đất quê hương, chà đạp lên cuộc sống thanh bình của mình. Cho nên, toàn thể nhân dân các huyện phủ Lỵ Nhân đã háo hức, khát khao mong chờ nghĩa quân Tây Sơn tiến ra để giải phóng khỏi ách xâm lược. Truyền thuyết vùng Thanh Liêm, Kim Bảng, Duy Tiên cho biết: Khi được tin quân Tây Sơn tiến ra Thăng Long diệt giặc Thanh, nhân dân chuẩn bị cơm rượu, quà bánh để uý lạo quân sĩ. Tết đến nhiều gia đình không đốt pháo để giữ bí mật và để dành mừng ngày chiến thắng.

Ngày 22 tháng 12 năm 1788 (tức 25 tháng 11 năm Mậu Thân), Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế tại núi Ngự Bình (Huế), lấy niên hiệu là Quang Trung, rồi lập tức xuất quân. Ngày 15 tháng 1 năm 1789 (20 tháng chạp năm Mậu Thân), đại quân đã tập kết tại Phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn. Sau khi nghe báo cáo của Ngô Văn Sở về tình hình chuẩn bị chiến dịch của quân ta và tình hình quân địch, tham khảo thêm ý kiến của mưu sĩ Ngô Thời Nhậm, Quang Trung quyết định chia thành 5 cánh quân chuẩn bị cuộc tổng tiến công. Quang Trung thân chinh dẫn một đạo quân tiến công vào cụm đồn Gián Khẩu, đồn Ninh Quyết, một căn cứ tiền tiêu quan trọng trong hệ thống phòng thủ Thăng Long từ xa của quân Thanh. Quân Tây Sơn bằng lực lượng quân đội tinh nhuệ, lại được sự hợp lực tích cực của quân dân các địa phương trong đó có Hà Nam, cả trên bộ lẫn dưới nước, chẳng bao lâu quân giặc đóng giữ trong đồn bị tiêu diệt hết. Đoàn quân Tây Sơn phát huy khí thế chiến thắng, tiếp tục cùng nhân dân các vùng Hà Nam tiêu diệt nốt những cứ điểm phòng ngự đóng tại Hoàng Đan (nay thuộc huyện Thanh Liêm) và đồn Nhật Tảo ở huyện Duy Tiên. Tàn quân của địch cùng toán quân do thám ở phủ Lỵ Nhân, Thiên Trường thấy vậy, sợ hãi vội vàng bỏ chạy, đến Phú Xuyên (Hà Tây) thì bị quân ta bắt hết. Trong những trận chiến đấu này, một số người con ưu tú, dũng cảm của quê hương Hà Nam đã hy sinh anh dũng, góp phần làm nên chiến thắng oanh liệt đánh tan quân Thanh xâm lược. Nhân dân Hà Nam hoàn toàn có quyền tự hào đã cùng với quân dân các vùng miền khác của cả nước viết lên trang sử vẻ vang trong mùa xuân Kỷ Dậu 1789(1).

Ngày nay ở làng Gừa (huyện Thanh Liêm) và một số thôn xóm lân cận, vào dịp Tết cổ truyền dân tộc, lại tràn ngập không khí của những ngày xuân Kỷ Dậu đánh quân Thanh năm xưa. Ở làng Gừa có tục cấm chiêng trống từ đêm 30 tháng chạp âm lịch đến hết ngày mồng 3 Tết. Sáng mồng 4 mới có lệnh phát hoả, ai vi phạm sẽ bị làng phạt vạ (2), ở làng Sái (nay một phần là thôn An Thái, xã An Mỹ thuộc thị trấn Bình Mỹ) và thôn Thương Thọ (nay một phần là thôn Thượng Thọ thuộc xã Mỹ Thọ) huyện Bình Lục hiện vẫn còn lưu truyền tục “ăn tết lại” vào ngày 8 và 10 tháng giêng âm lịch. Tục này nhằm ghi nhớ chiến công Tết Kỷ Dậu 1789, đánh Thanh của Quang Trung - Nguyễn Huệ (do xuất quân sớm nên một số trai đinh của nhiều vùng và cả Hà Nam không kịp ăn Tết đã theo đoàn quân của Quang Trung - Nguyễn Huệ tiến về giải phóng Thăng Long).

Vào thời Nguyễn, nạn tham nhũng lan rộng trong tầng lớp quan lại của chính quyền trung ương và các địa phương. Cộng vào đó là những thiên tai liên tiếp giáng xuống, vì thế đời sống của nhân dân lao động nhất là nông dân bị bần cùng hoá. Người dân Hà Nam đã tự đứng lên để chống đối chính quyền phản động nhà Nguyễn, giành lại cuộc sống ấm no cho mình. Liên tiếp trong nửa đầu thế kỷ XIX, bắt đầu từ thời Gia Long (1802-1820), nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân ở Hà Nam đã nổ ra và huy động được nông dân các vùng tham gia đông đảo. Đáng chú ý là cuộc khởi nghĩa của Lê Đàm ở thôn Lạt Sơn (nay thuộc xã Thanh Sơn, huyện Kim Bảng) nổ ra vào tháng 2-1814, khởi nghĩa Cao Bá Quát (tháng 9 năm 1854 - 1855) có thời gian hoạt động trong vùng Kim Bảng.

2. Kinh tế, văn hóa, giáo dục Hà Nam thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XIX

Vào đầu thế kỷ XVI, triều Mục được thành lập (1527) đã cố gắng hạn chế sự sa sút về kinh tế vì sự phá sản của chính sách quân điền, sự thu hẹp ruộng đất công làng xã, sự suy sụp trong nông nghiệp do các ông vua cuối cùng của triều Lê bất lực không thể quản lý được đất nước. Triều Mạc đã thực hiện những chính sách khuyến khích và bảo vệ nông nghiệp, trong đó có những việc như khai thông hệ thống thuỷ lợi tưới tiêu. Những cố gắng của vương triều Mạc đã thu được hiệu quả nhất định. Tại các địa phương vùng Đàng Ngoài, trong đó có Hà Nam, đời sống nhân dân có phần được cải thiện.

Song, do cuộc chiến tranh liên miên với họ Trịnh, nên cảnh tượng thái bình mà triều Mạc đã tạo dựng cũng không kéo dài được bao lâu. Các biện pháp khuyến nông bị bê trễ, nạn hạn hán, mất mùa lại liên tục diễn ra trên đất Hà Nam cũng như nhiều địa phương khác. “Tháng 4 năm 1548, các phủ Lỵ Nhân, Trường Yên mưa đá đổ xuống sầm sập, có hạt mưa to bằng hòn đạn, có hạt mưa to bằng quả trứng gà... làm hư hại lúa má ngoài đồng, cây cối trong vườn, người và súc vật bị thương rất nhiều”. Tháng 7 năm 1574, mưa bão dữ dội “cây cối bốc rễ, lúa ngả rạp, nhà đổ, thuyền đắm, người chết rất nhiều”(1). Nạn lụt lội liên miên từ thế kỷ XVI - XVIII, đã gây ra nhiều thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp. Từ năm 1594 - 1598, lụt lội xảy ra ở nhiều nơi làm phần lớn đồng lúa ở Lỵ Nhân, Thiên Quan, Trường Yên bị thiệt hại nặng. Từ những năm 30 của thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII, năm nào ở Hà Nam cùng các vùng xung quanh cũng đều bị ngập lụt. Đặc biệt vào năm 1713, nạn hồng thuỷ đã tràn ngập toàn bộ các huyện của Hà Nam “làm cho hơn một vạn nóc nhà bị xiêu giạt, tan tác, dân bị đói khổ”(1). Sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn này lâm vào cảnh đình đốn, trì trệ.

Cuộc nội chiến liên miên giữa hai tập đoàn Nam - Bắc triều và sau là Trịnh Nguyễn, đã làm cho đất nước điêu linh, dân tình khốn khổ. Nhân dân vùng Hà Nam cũng không tránh khỏi tình trạng khổ cực. Vùng đất Hà Nam nằm trong vùng đệm của hai tập đoàn phong kiến, thường xuyên phải gánh vác những chi phí cho chiến tranh. Trai tráng của Hà Nam phải ra trận và hy sinh, dân chúng ở lại phải gánh chịu nộp tô, thuế nặng nề, thường xuyên phải phu phen tạp dịch. Triều đình luôn luôn đốc thúc thu thuế, ngay cả những khi phong trào nông dân nổ ra mạnh nhất, triều đình cũng tìm đủ mọi cách để tận thu: Tháng 5, năm Tân Mùi, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 12 vua Lê Hiển Tông (1751), đặt ra hai hiệu Bình Đông (gồm Sơn Nam và Hải Dương) và Bình Tây (gồm Sơn Tây và Kinh Bắc) ở Kinh sư (Thăng Long), cho dân tự tiện đến nộp thuế(2).

Lợi dụng tình hình nhiễu nhương, bọn địa chủ, cường hào, lý trưởng (xã trưởng) dùng sức ép về kinh tế và các thủ đoạn gian manh khác cướp ruộng đất của nông dân. Tại thôn Lê Xá (nay thuộc xã Châu Sơn, huyện Duy Tiên), địa chủ lợi dụng chức quyền, cướp dần ruộng đất công trong làng làm ruộng tư. Số ruộng công bị chúng chiếm lên tới 100 mẫu trong tổng số 250 mẫu ruộng của làng. Tại xã Phú Thứ (nay thuộc xã Tiên Hiệp, huyện Duy Tiên), bọn địa chủ ở đây đã dùng nhiều phương thức cướp ruộng đất cày cấy của nông dân như: phát canh thu tô thường chiếm hai phần ba sản phẩm mỗi mẫu, từng bước đẩy họ vào con đường tha hương cầu thực. Cảnh người nông dân đi ăn xin, đi làm thuê cho địa chủ ngày càng xuất hiện ở nhiều nơi(3). Sản xuất nông nghiệp bị suy thoái, đình đốn, ruộng đồng tuy thiếu song nhiều khi lại bị bỏ hoang, không ai cấy trồng. Sản lượng thu nhập của nông nghiệp lại thấp. Cuộc sống của nông dân Hà Nam vốn đã cơ hàn, bước vào những thế kỷ XVI - XVIII, lại càng sa vào tình cảnh túng quẫn hơn.

Trong khoảng thời gian từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, mặc dù gặp khó khăn do thiên tai, địch họa..., nghề thủ công cổ truyền vẫn được nhân dân các làng xã Hà Nam cố gắng duy trì và phát triển, trong đó đáng chú ý là: nghề dệt lụa ở Nha Xá (xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên), nghề trồng dâu nuôi tằm ở Dưỡng Mông (xã Tiên Phong, huyện Duy Tiên). Nghề trồng dâu nuôi tằm tại Dưỡng Mông có một lịch sử rất lâu đời và đã nổi tiếng từ thế kỷ I. Hiện tại xã Tiên Phong còn ngôi đình đá 5 gian thờ bà Tổ nghề(1). Tất cả những hiện vật còn được lưu giữ tại đình như sắc phong, câu đối, thần phả có nội dung đều phù hợp với truyền thuyết trong dân gian. Theo thần phả viết vào đời Hồng Phúc nguyên niên (1572), bà tên là Nguyệt Nga con ông Nguyễn Văn Bình và bà Mai Thị Sáng quê ở xã Dưỡng Mông. Thời gian làm quan bà thường về quê khuyên bảo nhân dân chăm chỉ nghề nông và dạy dân nghề chăn tằm.

Tơ tằm đem bán cho Nha Xá - cách Dưỡng Mông 15km về phía Bắc, nơi có nghề dệt lụa nổi tiếng trong vùng. Lúc bấy giờ trong làng Nha Xá có khoảng năm, sáu chục khung dệt. Sản phẩm ở đây là những vuông vải dệt khổ nhỏ rộng 2 phân. Hình ảnh vợ ở nhà ươm tơ, dệt vải, chồng gói vải vào một bọc nặng khoảng năm, sáu cân khoác vào vai rồi đi bán nhiều nơi ở Đàng Ngoài, thường là lên Kẻ Chợ (Thăng Long) bán lại cho các nhà buôn, đã trở thành cảnh thường thấy tại Nha Xá. Nghề mộc tiếp tục được phát huy, dưới bàn tay khéo léo của người thợ Hà Nam đã xuất hiện những sản phẩm đồ gỗ đầy sức quyến rũ. Cư dân Hà Nam còn học thêm một số nghề mới như nghề điêu khắc, nghề sơn mài, nghề đan... Trong đó đáng kể nhất là nghề sơn mài ở thôn Trung (xã Châu Sơn, huyện Duy Tiên). Nghề này xuất hiện ở đây, vào khoảng đầu thế kỷ XVIII, phát triển mạnh nhất vào cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, sau đó tàn lụi dần và mất hẳn vào đầu thế kỷ XX.

Nền thương nghiệp của Hà Nam trong những thế kỷ XVI - XVIII, cũng bước đầu được chú ý phát triển. Mạng lưới thương nghiệp nhỏ và một số điểm buôn bán đã hình thành. Vào thế kỷ XVI - XVIII, vùng đất phủ Lỵ Nhân thuộc thị xã Phủ Lý ngày nay đã trở thành trung tâm chính trị, quân sự và giao lưu thương nghiệp khá sầm uất. Đương thời hai chợ khá lớn là Chợ Bầu và chợ Trấn, hầu như ngày nào cũng họp, người trong phủ đến mua bán tấp nập. Một vài dãy phố như phố Bờ Sông đã xuất hiện, tạo thành một điểm dân cư, nhộn nhịp nhất vùng:

Dù ai buôn đâu, bán đâu,

Cũng không tránh khỏi Cầu Châu, Vân Sàng.

(Cầu Châu là cây cầu bắc qua sông Châu, Vân Sàng nay thuộc thị xã Ninh Bình(1).

Hệ thống chợ phát triển không chỉ ở các trung tâm chính của tỉnh, mà tại các làng quê, việc giao lưu hàng hoá vốn là nhu cầu thiết yếu trong sinh hoạt hàng ngày của người dân cũng được đẩy mạnh. Nhiều dãy phố nhỏ với những chợ, quán sơ sài dọc theo các trục đường chính hàng huyện, hàng xã được lập từ trước như chợ Dâu (nay thuộc xã Tiên Phong, huyện Duy Tiên), chợ Phú Thứ, hoặc những chợ khác dựng lên bên cạnh bến sông nhỏ như chợ Bút Thượng (xã Châu Giang, huyện Duy Tiên) họp tại sông Thiên Mạc. Chợ Bút đã được tu sửa, nâng cấp để phù hợp với những nhu cầu trong giai đoạn mới. Tấm bia “Trùng tu thị bi” (Bia ghi chép việc tu sửa lại chợ) được soạn, khắc và dựng năm 1713 đã nói rõ điều này(2). Hàng hoá đưa ra buôn bán ở các chợ và phố phường chủ yếu là nông sản, thóc gạo, gia súc, gia cầm, các loại thực phẩm... Các loại lâm sản như hương liệu, mật ong, luồng gỗ...; các mặt hàng thuỷ, hải sản như tôm cá, nước mắm, muối...; ngoài ra còn có cả các sản phẩm thủ công truyền thống như vải dệt thô, the, lụa, đồ gốm, đồ gỗ, đồ đan lát... Phần lớn những hàng hoá đó là sản phẩm tự nhiên, một phần là do người nông dân gia công, sản xuất trong lúc nông nhàn. Vào thời kỳ này, ở Hà Nam xuất hiện một số thương nhân chuyên nghiệp, nhiều nơi đã hình thành những phường buôn với số lượng người tham gia không nhỏ. Họ hoạt động không chỉ hạn hẹp tại các địa phương trong vùng Hà Nam mà còn vươn xa tới các nơi khác trong phạm vi Bắc Hà. Thôn Câu Tử (nay thuộc xã Châu Sơn, huyện Duy Tiên) hồi bấy giờ đã có phường buôn thường xuyên lên Hoà Bình, vào Thanh Hoá thu mua luồng, gỗ các loại đem về vùng xuôi tiêu thụ(3).

Nhìn chung nền kinh tế nông nghiệp của cả nước nói chung và Hà Nam nói riêng bị sa sút, thủ công nghiệp và buôn bán nhỏ tuy có phần phát triển hơn so với các thế kỷ trước, song vẫn chưa đáp ứng nổi nhu cầu cuộc sống bình thường của người dân đương thời.

Vào cuối thế kỷ XVIII, sau chiến thắng quân Thanh, vương triều Tây Sơn khẩn trương khôi phục và xây dựng lại đất nước. Năm 1789, Quang Trung cho công bố “Chiếu khuyến nông” để giải quyết nạn dân phiêu tán và tình trạng ruộng đất hoang hoá. Đồng quê Hà Nam cũng như các nơi khác nếu trước đây chỉ là một cảnh tượng hoang tàn, ruộng đồng nứt nẻ, không người cày cấy, thì sau vài năm dưới triều Tây Sơn đã lại trở thành một vùng tương đối trù phú, dân cư khá phồn thịnh, thanh bình. Có một số binh lính của triều Tây Sơn quê gốc ở Quy Nhơn, sau khi tham gia quân ngũ đã lưu lại Hà Nam sinh sống và lập nghiệp. Đường Quy Lưu tại thị xã Phủ Lý là một chứng cứ sinh động cho sự hiện diện của binh lính Quy Nhơn. Theo quy định của triều Tây Sơn ở những nơi khai hoang, phục hoá sau ba năm canh tác, thu hoạch, nông dân mới phải nộp thuế. Mức thuế của người dân nộp cho nhà nước bằng tiền hay hiện vật, có loại thấp hơn thời Lê Trung hưng tới hai phần ba"(1).

Trên đất Hà Nam, hệ thống giao thông và thủy lợi được khôi phục và phát triển. Các con sông được nạo vét, nhiều con mương mới dẫn nước tưới tiêu được đào mới. Đặc biệt, đoạn đê sông Hồng chạy từ Tuần Vường xuống đến Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định, được nhân dân phủ Lỵ Nhân đắp to và rộng hơn, nhằm hưởng ứng công việc trị thuỷ “đại khởi công đắp đê Nhị Hà” do triều Tây Sơn phát động(2). Do vậy, nạn hạn hán, lũ lụt, ngập úng, dẫn đến mất mùa được giảm thiểu đáng kể. Sản xuất nông nghiệp được phục hồi và phát triển. Năm 1791, sử cũ cho hay: “Mùa màng trở lại phong đăng, năm phần mười trong nước khôi phục được cảnh thái bình”(31).

Công thương nghiệp dưới thời vua Quang Trung đã được quan tâm và phục hồi sau những năm bị đình trệ. Vua Quang Trung chủ trương phát triển nền thương nghiệp trong nước và phát triển buôn bán với nước ngoài. Ngoài ra để kích thích buôn bán, vua Quang Trung còn cho thi hành một chế độ  thuế khoá đơn giản, giảm nhẹ hoặc miễn thuế hoàn toàn đối với một số loại thuế như thuế đinh, thuế thổ sản. Có thể thấy, với những chính sách ban đầu tương đối rộng mở của vương triều Tây Sơn, nền kinh tế đất nước dần được phục hồi và phát triển. Nhưng thật đáng tiếc, vị vua áo vải Quang Trung đã sớm từ trần, mang theo bao dự định tốt đẹp, và cũng làm cho nền kinh tế vừa được phục hồi lại có nguy cơ lâm vào suy thoái.

Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, lấy niên hiệu Gia Long, xác định quyền thống trị trên cả nước. Sau nhiều năm loạn lạc kéo dài, vấn đề ổn định xã hội, phục hồi kinh tế đã trở thành một yêu cầu bức thiết, buộc các vua triều Nguyễn phải lưu tâm. Vua Gia Long đã thực thi nhiều chính sách nhằm ổn định trật tự xã hội, củng cố nền quân chủ chuyên chế, ban hành bộ “Luật Gia Long” (1807), chia đặt lại các đơn vị hành chính cho phù hợp thực tế của các địa phương. Về kinh tế, Gia Long khuyến khích khai hoang, phục hoá ruộng đất, năm 1804 ban hành phép quân điền, định lệ chia ruộng đất công cho nông dân, hạn chế nạn phiêu tán. Dưới thời Minh Mệnh, công cuộc cải cách hành chính các cấp thu được những hiệu quả khá quan. Nhiều biện pháp nhằm tăng cường phát triển kinh tế được áp dụng: hệ thống đồn điền được thiết lập ở nhiều nơi, hình thức khai hoang doanh điền do Nguyễn Công Trứ khởi xướng ra đời và nhiều làng mới được lập ra tại các vùng ven biển Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình.

Công tác trị thuỷ, thuỷ lợi được tiến hành thường xuyên dưới triều Nguyễn. Song tất cả những cố gắng của triều Nguyễn vẫn không cứu được nhân dân lao động khỏi cảnh thiên tai, hạn hán, lụt lội liên tiếp diễn ra hằng năm. Từ năm 1802 đến 1858, cả nước phải chịu 38 lần mưa bão lụt lội, trong đó có 16 lần vỡ đê. Đặc biệt dưới thời Tự Đức, công cuộc trị thuỷ đã không mấy hiệu quả, triều đình tỏ ra bất lực. Vào năm 1840, vỡ đê ở tỉnh Nam Định, ở huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam, lụt ở tỉnh Ninh Bình; năm 1847 vỡ đê ở các huyện Thanh Liêm, Duy Tiên...; năm 1857 vỡ đê ở các tỉnh Nam Định và Hà Nội. Tháng 8 năm Tân Tỵ 1864, đê Châu Giang vỡ, tàn phá nặng nề nhiều làng xã của tổng Lam Cầu, Đọi Sơn (huyện Duy Tiên) gây thiệt hại lớn về người và của. Ở thôn Câu Tử (nay thuộc xã Châu Sơn, huyện Duy Tiên), khoảng giữa thế kỷ XIX, nông dân phải bỏ làng ra đi tới quá một nửa lên sinh sống tại các tỉnh Hoà Bình, Tuyên Quang, Hà Giang và Việt Trì(2). Nhà thơ Nguyễn Khuyến đã có nhiều bài thơ về thực trạng vỡ đê, ngập lụt của vùng Bình Lục quê ông và của cả Hà Nam trong giai đoạn những năm giữa thế kỷ XIX, tiêu biểu là những câu:

Quai Mễ Thanh Liêm đã vỡ rồi

Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi.

(Bài Hà Nam nước lụt)

Ai lên nhắn hỏi bác Châu Cầu,

Lụt lội năm nay bác ở đâu?

(Bài Lụt hỏi thăm bạn)(1).

Cuộc sống bấp bênh, luôn bị phụ thuộc vào thiên nhiên đã khiến người nông dân Hà Nam dưới thời Nguyễn lâm vào cảnh “bước đường cùng”. Nhiều làng xác xơ, chỉ còn lại ít người sống vật vờ, “sống dở chết dở”. “Tại thôn Thượng xã Châu Sơn, huyện Duy Tiên dưới thời Gia Long, nhân dân đói khổ, bệnh tật, trẻ con, người lớn chết nhiều, cả làng chỉ sót lại hơn chục người, nhưng cũng trong cảnh sống dở, chết dở. Những người sống sót lôi người chết ra cánh đồng phía Bắc làng chôn qua loa cho xong. Nhiều người khiêng xác người chết ra đồng không đủ sức chôn nữa, đành bỏ đó rồi bò về”(2).

Nền kinh tế mà chủ yếu là sản xuất nông nghiệp của cả nước nói chung và Hà Nam nói riêng trong thời Nguyễn lâm vào cảnh đình đốn, tô thuế nặng nề làm cho đời sống người nông dân Hà Nam càng thêm khổ cực. Phan Huy Chú cho biết, vào triều Nguyễn, hầu như huyện nào trong phủ Lý Nhân cũng đều có “các sở tuần đánh thuế”, trong đó “bến tuần Châu Cầu là chính, còn các bến khác như Dưỡng Mông huyện Duy Tiên), Hào Châu (huyện Nam Xang), Châu Xá (huyện Kim Bảng) là chi nhánh ”(3).

Tiếp theo sự phát triển của kinh tế thương nghiệp qua các thế kỷ trước, hệ thống chợ vào thế kỷ XIX, nhất là vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đã được mở rộng. Tại các vùng thuộc đồng bằng châu thổ Bắc Bộ hầu như các làng lớn đều có chợ. Huyện Bình Lục (tỉnh Hà Nam) có 22 chợ, ở mỗi huyện tính trung bình từ 4 đến 7 làng lại có 1 chợ chung, họp theo định kỳ mỗi tháng 6 phiên và mỗi phiên nửa ngày(1). Nhiều vùng Hà Nam chợ quê họp hằng ngày, hầu hết sản phẩm giao lưu tại chợ là các loại nông sản, lương thực, thực phẩm, công cụ lao động, đồ dùng sinh hoạt hằng ngày. Hà Nam vốn nổi tiếng là một vùng ngập lụt; vào tháng 7 hoặc tháng 8 âm lịch, nước trắng cả đồng, có người lấy nghề chài lưới kiếm con tôm, con cá qua ngày. Cũng có một số người tìm cách kiếm sống bằng nghề buôn đơn giản như hàng xay hàng xáo, kiếm một chút tiền tiêu và ít lương thực như cám, tấm để ăn và chăn nuôi lợn, gà. Cảnh tượng những trai đinh lực điền vùng đất Nam Xang chạy ngược chạy xuôi làm hàng xáo kiếm miếng ăn trong những ngày nước lớn được phản ảnh trong thơ ca:

Anh là con trai Nam Xang,

Nước lớn ngang đàng, vác đấu đi đong,

Anh đong tỉnh Bắc, tỉnh Đông,

Trở về, anh lại sang đong tỉnh Đoài.

Cùng với nghề nông rơi vào tình trạng bế tắc, thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng không có đường phát triển. Nhiều thợ giỏi của các nghề sơn son thiếp vàng ở thôn Trung (xã Châu Sơn, huyện Duy Tiên), nghề làm mộc ở thôn Mạc (nay thuộc xã Tiên Tân, huyện Duy Tiên), làng gốm Đanh Xá (xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng) đã bị bắt đưa vào kinh đô Huế để phục vụ xây dựng những công trình kiến trúc như lăng tẩm, cung điện... cho vương triều Nguyễn. Chính sách “ức thương” cùng việc đánh thuế nặng nề đã khiến cho nhiều thương nhân phải bỏ nghề đi tìm công việc khác mưu sinh, đó là trường hợp xảy ra cho các phường buôn gỗ tại Câu Tử (xã Châu Sơn, huyện Duy Tiên), phường buôn thuyền, buôn gạo ở Lạc Tràng (huyện Kim Bảng - nay thuộc thị xã Phủ Lý). Nghề dệt truyền thống tại Nha Xá (xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên) cũng chỉ sản xuất cầm chừng, không được mở mang như các thời kỳ trước.

Dù trong bối cảnh chung của xã hội từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XIX, có nhiều khó khăn do các cuộc chiến tranh xảy ra, đất nước hầu như không lúc nào yên bình, nhưng truyền thống hiếu học, việc giáo dục thi cử vẫn được tiếp tục tại Hà Nam. Từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX, có nhiều người dân Hà Nam thi đỗ Tiến sĩ, Tạo sĩ và Phó bảng. Trong số đó không ít người đã giữ những trọng trách của các vương triều Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn.

Đáng chú ý nhất là Lê Tung (1452-1514), tên thật là Dương Bang Bản, người xã An (Yên) Cừ (nay thuộc xã Liêm Thuận, huyện Thanh Liêm). Ông đỗ Hoàng giáp, khoa thi Hồng Đức năm thứ 15 triều vua Lê Thánh Tông (1484). Do có nhiều công lao với triều Lê (phụng sự 5 triều vua, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Lê Túc Tông, Lê Tương Dực và Lê Uy Mục), ông được ban quốc tính (họ Lê) và đổi tên thành Tung. Lê Tung từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như: Thượng thư bộ Lại, Thượng thư bộ Lễ, Quốc Tử giám Tế tửu... Người đời thường nhắc đến ông với tư cách một sử gia. Năm 1514, vua Lê Tương Dực sai Lê Tung dựa vào Đại Việt thông giám thông khảo để soạn Đại Việt thông giám tổng luận. Sau đó toàn bộ Đại Việt thông giám tổng luận được các soạn giả Đại Việt sử ký toàn thư đưa vào phần đầu của bộ quốc sử với tiêu đề Việt giám thông khảo tổng luận. Tuy Lê Tung không tham gia soạn quốc sử, nhưng qua bài Tổng luận với những quan điểm tiến bộ của mình, Lê Tung nhận được sự đánh giá cao của giới sử học(1).

Từ xưa Hà Nam vốn nổi tiếng là vùng văn học, thế kỷ XVI-XIX, văn học Hà Nam vẫn luôn phát triển. Thời kỳ này Hà Nam đã sản sinh ra những tên tuổi nổi tiếng trên thi đàn, văn đàn cả nước. Nhà thơ Nguyễn Khuyến (1835-1909) đã lớn lên và trưởng thành nơi vùng quê nghèo khó, ngập lụt và đạt tới vinh quang trong sự nghiệp văn thơ vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Ngoài ra, những tư liệu thành văn còn được lưu giữ như địa chí, văn bia, gia phả cùng những tập thơ... bằng chữ Hán và chữ Nôm đã chứng tỏ sự phát triển của văn học Hà Nam thế kỷ XVI đến giữa XIX. Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, đạt được thành quả rực rỡ. Hàng trăm hiện vật như bia đá, khánh đá, tháp đá, chuông đồng, ván in kinh... cùng các ngôi chùa, ngôi đình, mang đậm dấu ấn các thời Mạc, Lê, Nguyễn được phát hiện và lưu giữ tại các địa phương và nhà Bảo tàng tỉnh Hà Nam đã minh chứng cho sự phát triển của nghề điêu khắc, kiến trúc và văn hoá, trên đất Hà Nam từ thế kỷ XVI-XIX. Có thể những tác phẩm tiêu biểu như: Bia Sùng Khánh tự bi (Bia chùa Sùng Khánh) tại thôn Đông Vũ (xã Thọ Ích, huyện Nam Xương - nay thuộc huyện Lý Nhân) soạn năm Minh Đức thứ nhất (1527) niên hiệu nhà Mạc; tháp chuông chùa Khánh Long, xã Châu Giang (huyện Duy Tiên), đình đá thôn Dưỡng Mông (xã Tiên Phong, huyện Duy Tiên)... bia “Phật Pháp Tăng”, tại chùa thôn An Trạch (nay thuộc xã Bắc Lý, huyện Lý Nhân), bia tháp Linh Ứng tại thôn An Trạch; khánh đá chùa thôn An Trạch; tại chùa Tế Xuyên (nay thuộc xã Đức Lý, huyện Lý Nhân) hiện còn tới 1.700 ván in kinh...

Những ngôi đình mái cong uyển chuyển mang phong cách thế kỷ XVII- XVIll, vẫn còn hiện diện tại hầu hết các làng xã Hà Nam như đình Văn Xá, đình Thọ Chương, đình Mạc Hạ (huyện Lý Nhân); đình An Hoà, đình Hoà Ngãi, đình Chảy (huyện Thanh Liêm), đình Vị Hạ, đình Đồng Du (huyện Bình Lục)(1). Thông qua những hiện vật trên cùng nội dung được lưu giữ qua các tài liệu Hán, Nôm, những trang trí hoa văn, đồ thờ tự... cho phép tìm hiểu nhiều điều về tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán... của làng xã Hà Nam trong các thế kỷ XVI - XIX.

Vào các thế kỷ XVI - XIX, Nho giáo vẫn được các chính quyền phong kiến dùng làm nền tảng tư tưởng cho giai cấp thống trị. Mặc dù trong giai đoạn này Nho giáo vẫn giữ vai trò chi phối, nhưng đã suy giảm nhiều. Nho giáo phải dựa vào Phật giáo và Đạo giáo trong thuyết Tam giáo đồng tôn. Tấm bia “Phật Pháp Tăng” chùa thôn An Trạch (xã Bắc Lý, huyện Lý Nhân) có niên đại 1537, đã phần nào minh chứng cho vị trí không còn “độc tôn” của Nho giáo giai đoạn này tại vùng Hà Nam. Phật giáo trong các thế kỷ XVI-XVIII, được phát triển tại Hà Nam. Nhiều ngôi chùa cũ được tu sửa, nhiều ngôi chùa mới được dựng, như Chùa Cả (xã Châu Giang, huyện Duy Tiên). Hồi đó làng nào cũng có người theo Phật giáo, có các vị sư trụ trì (2).

Hà Nam là một trong sáu tỉnh còn giữ lại nhiều di tích Đạo giáo nhất. Các huyện Bình Lục, Duy Tiên, Kim Bảng, Thanh Liêm và phủ Lý Nhân đều có nhiều nơi thờ cúng các vị thần của Đạo giáo(3). Đạo Thiên chúa đã được truyền bá vào nước ta từ những năm 30 của thế kỷ XVI. Sử sách còn ghi lại: Năm 1533, niên hiệu Nguyên Hòa đời vua Lê Trang Tông, giáo sĩ phương Tây tên là Y-nê- khu (Ignatio) đã đến truyền đạo tại các vùng ven nghèo khó của các tỉnh Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam, Thái Bình... Khi đến các vùng này, giáo sĩ Ignatio đều mang thuốc và tiền phát cho dân chúng, không ngoài mục đích truyền đạo.

Nhưng vào thế kỷ XVI, đạo Thiên Chúa vẫn chưa đặt được nền móng cho việc truyền đạo tại Hà Nam và các nơi khác. Đến thế kỷ XVII, đặc biệt từ giữa thế kỷ XVIII trở đi, đạo Thiên Chúa đã tạo dựng được một cơ sở khá vững với một đội ngũ giáo sĩ, linh mục (phương Tây và bản xứ) thông thạo phong tục tập quán và tình hình chính trị xã hội Việt Nam. Các giáo sĩ đã cố gắng tìm mọi cách truyền đạo vào Việt Nam, họ vận dụng cả chữ Hán, Nho giáo và học tiếng Việt để thâm nhập đời sống xã hội, tranh thủ tuyên truyền, mở rộng giáo phận. Một số giáo sĩ phương Tây thậm chí còn lợi dụng hoạt động truyền giáo để thăm dò, tìm hiểu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quân Pháp xâm lược Việt Nam sau này(1).

Do Hà Nam từ thế kỷ XVI- XIX, trở thành một địa bàn để các giáo sĩ phương Tây chú trọng phát triển đạo Thiên Chúa, nên số lượng giáo dân tăng lên, nhiều nhà thờ đã được xây dựng trên địa phận Hà Nam. Hiện tại còn hai trung tâm của đạo Thiên Chúa giáo là vùng Kẻ Non và Kẻ Sở (cả hai đều thuộc huyện Thanh Liêm), ở Hà Nam còn những nhà thờ Thiên chúa giáo, với những đường nét kiến trúc gô-tích phương Tây kết hợp với phong cách kiến trúc truyền thống Việt Nam. Tiêu biểu là nhà thờ hai tháp Xứ Bút Đông (xã Châu Giang, Duy Tiên), nơi được coi là làng đạo gốc ở đồng bằng Bắc Bộ đã sản sinh ra nhiều vị linh mục, trong đó có cả Hồng Y Giáo chủ.

Tính từ những ngày đầu cư dân Việt cổ định cư tại vùng đất trũng Hà Nam, cho đến khi thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên tấn công vào Việt Nam, cư dân Hà Nam đã trải qua một chặng đường dài mấy nghìn năm cùng dân tộc dựng nước và giữ nước của cả dân tộc. Những hiện vật Đông Sơn, đặc biệt trống đồng (như trống đồng Ngọc Lũ), nhiều mộ thuyền đã được phát hiện tại Yên Bắc, Mộc Bắc, Đọi Sơn... đều mang sắc thái bản địa, độc lập của cư dân Lạc Việt, cư dân Hà Nam. Hầu như văn hoá Hán, dấu ấn Hán chưa có ảnh hưởng.

Năm 111 trước Công nguyên, khi nhà Hán xâm chiếm nước Nam Việt của Triệu Đà, đất đai Âu Lạc (bao gồm cả Hà Nam) bị chuyển vào tay chính quyền Hán. Gần mười thế kỷ tiếp theo không đơn thuần chỉ là công cuộc tiến hành Hán hoá của thống trị phương Bắc mà quá trình tiếp thu văn hoá Hán và chống sự đồng hoá Hán quyết liệt của dân tộc Việt, trong đó có nhân dân Hà Nam, để vào những năm đầu Công nguyên, khởi nghĩa Hai Bà Trưng nổ ra năm 40, chứng tỏ sức quật khởi của nhân dân Lạc Việt đối với ách thống trị của nhà Hán. Các địa phương trong cả nước đương thời đều ủng hộ mạnh mẽ cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Hà Nam là một trong những vùng có nhiều nhân vật tham gia khởi nghĩa: Nguyệt Nga ở Dưỡng Mông (huyện Duy Tiên); Cao Thị Liên, Lê Hoàng Nghị ở Thạch Tổ (huyện Thanh Liêm); Nguyễn Thiện ở Phù Khê (huyện Kim Bảng); Lê Chân tại Lạt Sơn (huyện Kim Bảng)... Cuộc khởi nghĩa bị thất bại, nhiều người con Hà Nam đã hy sinh, trở thành những tấm gương tiêu biểu cho muôn đời sau ngưỡng mộ, cảm phục. Tiếp theo vào năm 543, Lý Bí nổi lên đánh đuổi quân Lương, rồi khởi nghĩa Triệu Quang Phục, nhân dân Hà Nam cầm vũ khí đứng lên bảo vệ xóm làng, giữ độc lập cho dân tộc với những Đinh Lôi, Nguyễn Khôi... đã lưu lại nhiều dấu tích chiến công cho tới tận ngày nay.

Mở đầu cho thế kỷ X, một kỷ nguyên độc lập dân tộc, là ba cha con họ Khúc, họ đã chứng tỏ tài năng quản lý quốc gia tự chủ của người Việt. Năm 938, chiến thắng trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền, đã chính thức chấm dứt hơn nghìn năm đô hộ của thống trị phương Bắc, mở ra một thời đại mới - độc lập, tự chủ, phục hưng dân tộc. Nạn cát cứ với loạn 12 sứ quân diễn ra làm cho sự thống nhất tập trung bị chao đảo. Người anh hùng Đinh Bộ Lĩnh với tài năng của mình cùng sự phò tá tích cực của nhiều tướng sĩ, trong đó có không ít người tài ba quê Hà Nam đã không quản ngại hiểm nguy, mang theo quân bản bộ cùng họ Đinh dẹp yên nạn cát cứ.

Lê Hoàn, người kế tục xứng đáng sự nghiệp thống nhất đất nước của Đinh Bộ Lĩnh. Ông vua bình dân, đi chân đất, bắt cá trước mặt sứ thần ngoại bang lại chính là vị tướng dũng mãnh phá giặc Tống, bình giặc Chiêm. Sứ thần đời sau phải ca ngợi “đánh giặc dễ như trở bàn tay, khiến cho ngoại bang phải nể vì”. Đó là vua Lê Đại Hành, vị vua đầu tiên trong lịch sử Đại Việt thực hiện việc cày tịch điền ngay trên vùng quê chiêm trũng của Hà Nam. Cũng chính vua Lê Đại Hành đã làm cho nền kinh tế của nước Việt Nam thời Tiền Lê có bước chuyển biến mới.

Đầu thế kỷ XI, Lý Thái Tổ đã thực hiện một cuộc dời đô mang tính lịch sử quyết định cả công cuộc kiến thiết đất nước và kinh đô cho nhiều đời sau này. Trong công cuộc chuyển đô ra Thăng Long, nhân dân Hà Nam bằng sức lực cùng kinh nghiệm sông nước của mình đã góp phần không nhỏ đảm bảo an toàn cho đoàn thuyền ngự dọc theo tuyến thuỷ Hoàng Long - sông Đáy - sông Châu - sông Hồng đến thành Đại La (sau đổi là Thăng Long).

Chiến công Nam chinh năm 1069, của Lý Thánh Tông đánh thắng quân Chiêm Thành hung hãn, có sự góp sức không nhỏ của nhân dân Hà Nam. Điệu múa Dậm tại Quyển Sơn (xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng) mãi là một kỷ niệm sâu sắc cho quan hệ giữa quân lính triều Lý với nhân dân Hà Nam trong thế kỷ XII. Triều Lý với hơn hai thế kỷ tồn tại, để lại nhiều công trình kiến trúc, mà Tháp Sùng Thiện Diên Linh với tấm bia nổi tiếng trên chùa Đọi (huyện Duy Tiên) hiện vẫn còn, là một trong những minh chứng.

Kế tục sự nghiệp của triều Lý, triều Trần với gần hai thế kỷ trị vì, đã làm cho nước Đại Việt hùng cường trên nhiều lĩnh vực.

Ba lần chiến thắng giặc ngoại xâm Mông - Nguyên đã là một minh chứng đầy sức thuyết phục cho nhận định về nguyên nhân thắng lợi của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn: trên dưới đồng lòng, anh em hoà thuận, cả nước góp sức. Trong chiến công chung của dân tộc hồi thế kỷ XIII, có sự đóng góp quan trọng của nhân dân Hà Nam. Với vị trí chiến lược, công thủ thuận tiện, châu Lợi Nhân (Hà Nam đời Trần) đã được các vua Trần sử dụng như một hậu cứ an toàn, lại là một tiền tiêu vững chắc chống quân thù. Vùng đất Hà Nam đời Trần đã phát huy hết thế mạnh của mình, với các căn cứ quân sự, kinh tế đặt trên ngã ba của những dòng sông Thiên Mạc, sông Châu, sông Đáy... cùng những con người Hà Nam như Trần Bình Trọng... đã mãi mãi đi vào lịch sử và là niềm tự hào xứng đáng của người dân Hà Nam.

Thế kỷ XV, với sự xuất hiện của Lê Lợi, vị minh chủ của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, một trang mới đã mở ra trong lịch sử dân tộc. Cùng với nhân dân cả nước hưởng ứng lời kêu gọi đứng lên chống ách bạo tàn của giặc Minh giành lại độc lập cho dân tộc, người dân Hà Nam quyết không đứng ngoài cuộc chiến đấu gian khổ, nhưng vinh quang này. Nhiều con em của Hà Nam đã tích cực tham gia vào cuộc khởi nghĩa quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi Đại Việt. Các ông vua đầu triều Lê, đặc biệt là vua Lê Thánh Tông đã tập trung sức lực xây dựng quốc gia Đại Việt phát triển toàn diện cả về kinh tế lẫn văn hoá. Kinh tế Hà Nam, đặc biệt nông nghiệp cũng như nhiều vùng trong cả nước, có bước chuyển biến hơn trước nhiều. Các nghề thủ công truyền thống của các địa phương Hà Nam như dệt lụa Nha Xá (huyện Duy Tiên), dệt the ở Kim Bảng mà Nguyễn Trãi nhắc đến trong Dư địa chí... vẫn được duy trì và phát triển.

Văn hoá, giáo dục khoa cử dưới thời Lê Thánh Tông đạt tới giai đoạn thịnh trị, nhiều chính sách khuyến khích học tập được thi hành. Trong số những Tiến sĩ người Hà Nam đỗ dưới triều Lê, phải kể tới vị Tiến sĩ khoa Minh Kinh năm 1429, Trình Thuấn Du, người xã Đọi Sơn (huyện Duy Tiên), từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều Lê, nổi tiếng uyên bác, được người đời sánh ngang Lý Tử Tấn của Trung Quốc. Đặc biệt là Lê Tung, Tiến sĩ tiêu biểu của Hà Nam trong thời kỳ Lê Thánh Tông, người đời đánh giá là một sử gia nổi tiếng với bài tựa tổng quan viết cho bộ sử Đại Việt sử ký toàn thư.

Bước sang các thế kỷ XVI - XVIII, đất nước ta phải trải qua những cuộc chiến tranh nội chiến giữa những tập đoàn phong kiến. Hà Nam cũng như nhiều vùng khác phải chịu bao cảnh đau khổ, chết chóc tang thương. Người dân Hà Nam trong gian khổ, luôn tích cực tham gia các phong trào khởi nghĩa nổ ra trong các thế kỷ XVI - XVIII. Đặc biệt, trong khởi nghĩa Tây Sơn do anh em Nguyễn Huệ lãnh đạo, nhân dân Hà Nam đã hưởng ứng, đóng góp của cải, sức người cho cuộc khởi nghĩa. Trên đường tiến quân ra Bắc giải phóng Thăng Long vào Tết Kỷ Dậu 1789, nghĩa quân Tây Sơn đã được nhân dân Hà Nam đón tiếp chu đáo, động viên cả về tinh thần lẫn vật chất. Những trận đánh chiếm các đồn Hoàng Đan (thuộc địa phận huyện Thanh Liêm); Nhật Tảo (ở huyện Duy Tiên) của giặc Thanh có sự góp sức tích cực của những nghĩa quân bản bộ Hà Nam. Vua Quang Trung lên nắm quyền, bước đầu thực thi một số chính sách đã làm cho kinh tế, văn hoá, giáo dục của các vùng trong cả nước, trong đó có Hà Nam, được dần hồi phục và có đà phát triển. Song triều đại Tây Sơn quá ngắn, triều Nguyễn tiếp tục thừa hưởng thành quả thống nhất của Quang Trung để lại.

Các vua đầu triều Nguyễn đã cố gắng đưa ra những chính sách nhằm đẩy mạnh nền kinh tế cùng các lĩnh vực văn hoá, giáo dục. Nhưng, thiên tai, hạn hán, mất mùa liên tiếp diễn ra, lại thêm tệ tham nhũng quan liêu đang tràn lan trong các cấp của vương triều Nguyễn, khiến cho nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân các vùng nổ ra liên tục. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành năm 1826, mà nhân dân các vùng thuộc phủ Lỵ Nhân cũng tích cực tham gia. Năm 1858, thực dân Pháp ngang nhiên tấn công vào cửa biển Đà Nẵng, triều đình Nguyễn bạc nhược, không kiên quyết kêu gọi toàn dân đánh Pháp mà lại bàn hoà. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho đất nước lại lâm vào cảnh thuộc địa. Nhân dân Hà Nam cùng nhân dân cả nước bước vào giai đoạn mới, giai đoạn chống ách thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp ở nước ta.

(Còn nữa)

Điện tử

Bình luận bài viết

Bình luận

BÁO HÀ NAM ĐIỆN TỬ

Giấy phép xuất bản số 68/GP-BTTTT do Bộ Thông tin - Truyền thông cấp ngày 16/2/2017

Địa chỉ: Đình Tràng, phường Lam Hạ, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam

Tổng Biên tập: Nguyễn Duy Tuấn

Điện thoại: (0226) 3852.773 - 3853.342 | Fax: (0226)3853.342

Email: baohanam.dientu@gmail.com

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Nha khoa Daisy