Chương XXVIII
LỄ HỘI
Trên mảnh đất đậm đặc di tích như Hà Nam (có gần 1.300 di tích theo thống kê chưa đầy đủ), khái quát về lễ hội không dễ, bởi mỗi di tích (đình, đền, chùa...) đều có một lễ hội biểu hiện khát vọng của con người được giao tiếp với những lực lượng siêu nhiên mà họ hằng tin tưởng là có mối liên hệ mật thiết với cuộc sống của mình. Chính là sự thể hiện khát vọng cao cả đó, lễ hội mang tính triết lý sâu xa, kết tinh sự thăng hoa của con người trong những thời điểm nhất định, cho thấy sự cố kết của những cộng đồng cùng có chung một niềm tin tưởng về vị thần mà họ cùng thờ cúng. Theo thống kê của Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Hà Nam, hiện nay tỉnh có 114 lễ hội, cụ thể là: thị xã Phủ Lý có 6, huyện Thanh Liêm: 18, huyện Bình Lục: 14, huyện Lý Nhân: 20, huyện Duy Tiên: 27, huyện Kim Bảng: 29. Hầu hết các lễ hội ở Hà Nam được tổ chức chủ yếu vào hai kì xuân thu, trong đó, lễ hội mùa xuân là chủ yếu. Trong 114 lễ hội, có một số lễ hội được phân cấp là lễ hội vùng như lễ hội chùa Đọi (xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên), lễ hội làng Quyển Sơn được tổ chức ở đền Trúc, đình Trung thờ Lý Thường Kiệt (xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng), lễ hội đình Công Đồng (thôn An Thái, xã An Mỹ, huyện Bình Lục) thờ 3 vị thành hoàng Hoàng Công, Đô Công, Uy Công, lễ hội đền Trần Thương (thôn Trần Thương, xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân) thờ Trần Hưng Đạo... còn lại là hội làng. Căn cứ vào bản chất của lễ hội, có thể tạm chia lễ hội cổ truyền ở Hà Nam thành mấy loại chính:
- Lễ hội văn hoá
- Lễ hội lịch sử
- Lễ hội nông nghiệp
Dưới đây là một số lễ hội tiêu biểu ở một số địa phương thuộc 6 huyện thị của Hà Nam.
I. LỄ HỘI VĂN HÓA
Lễ hội văn hoá của Hà Nam nói chung phong phú, thể hiện ở ba loại hình: lễ hội chùa, lễ hội đền, lễ hội làng...
1. Lễ hội chùa Đọi (xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên).
Trong số các lễ hội chùa của Hà Nam thì lễ hội chùa Đọi là một lễ hội lớn của huyện Duy Tiên, cũng là một lễ hội thờ Phật có tiếng trong cả nước. Nội dung chủ yếu của lễ hội thể hiện tín ngưỡng văn hoá Phật giáo, đã ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân nơi đây.
Hàng năm, cứ đến ngày 21 tháng 3 âm lịch, chùa Đọi Sơn lại mở hội. Nhân dân trong vùng và rất đông khách thập phương đã về đây lễ và vãn cảnh chùa. Từ sáng sớm, đoàn rước kiệu đã hành lễ từ chân núi lên chùa làm lễ, dâng hương tưởng niệm Lý Nhân Tông, người có công mở mang xây dựng chùa. Sau phần lễ dâng hương là các đội tế nam quan, tế nữ quan tạ ơn Trời Phật.
Về phần hội, vào ngày lễ hội chùa Đọi Sơn, có nhiều trò vui được tổ chức như nấu cơm thi, dệt vải thi, bơi thuyền, hát chèo, hát đối, hát giao duyên, hội chọi gà, tổ tôm điếm, múa tứ linh, đấu vật, đánh cờ người.
2. Lễ hội đền Lảnh Giang (thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên)
Lễ hội đền Lảnh Giang là một lễ hội tiêu biểu cho loại hình lễ hội đền trong lễ hội văn hoá của Hà Nam.
Đền Lảnh Giang thờ Tam vị Đại vương thời Hùng Duệ Vương có công đánh Thục Phán, và thờ Tiên Dung. Một năm ở đây có hai kì lễ hội vào tháng 6 và tháng 8 âm lịch. Kì hội tháng 6 diễn ra từ ngày 18 đến ngày 25, kì hội tháng 8 được tổ chức vào ngày 20. Ngày 18 tháng 6 âm lịch, nhân dân địa phương tổ chức chồng kiệu, kéo cờ thần trước cửa đền, ngày 21 bắt đầu làm lễ cáo kỵ. Các ngày từ 22 đến 24 tháng 6, là ngày chính tế và rước kiệu thánh xung quanh đền. Ngày 25 tháng 6, tổ chức lễ tạ và hạ cờ, đóng cửa đền. Ngày 25 tháng 8 âm lịch, đền Yên Từ (xã Mộc Bắc, huyện Duy Tiên) thờ Ngọc Hoa công chúa rước kiệu về bái vọng.
Ngoài các nghi lễ như tế lễ và rước thánh còn có phần hội hết sức phong phú như múa rồng, múa lân, chiếu chèo sân đền, hát chầu văn, võ vật, đấu cờ người, tổ tôm điếm, múa sư tử, thổi cơm trên quang gánh, chọi gà, đuổi vịt dưới nước, đi cầu khỉ... Lễ hội vào tháng 6 còn có trò bơi chải trên sông Hồng và lễ rước nước. Nước được lấy từ giữa sông Hồng đem về làm nước cúng và làm lễ tắm tượng của các đền trong khu di tích. Nghi thức lấy nước giữa dòng sông Hồng để thờ cúng và tắm tượng vừa biểu thị nguyện vọng cầu xin mưa thuận gió hòa, vừa thể hiện khát vọng chinh phục thiên nhiên của nhân dân ta. Căn cứ vào tục thờ, căn cứ vào vị trí của đền bên bờ sông, có thể thấy, các vị thần mà đền Lảnh Giang thờ tuy có tên tuổi sự tích nhưng xét về thực chất là những vị thủy thần. Và cũng như ở những nơi thờ cúng thủy thần khác, ở đền Lảnh Giang, tục thờ cúng thủy thần thể hiện hai mặt của đời sống văn hoá tâm linh của nhân dân nơi đây: khát khao được thần thiên nhiên chở che và ước muốn chế ngự được sức mạnh của thiên nhiên hung hãn đó.
Ngày nay, rất đông khách thập phương đến lễ và tham quan đền Lảnh cùng khu di tích ở đây. Có nhiều năm nước ngập, khách thập phương cùng nhân dân địa phương bơi thuyền ra đền dâng lễ và thực hiện các nghi thức đầy đủ để tỏ lòng tôn kính tam vị danh thần và Tiên Dung. Ngoài hai kì hội chính, du khách gần xa vẫn tìm về đây cầu tài, cầu lộc. Phương ngôn có câu Trăm cảnh, nghìn cảnh không bằng bến Lảnh đền Mây là để nói đến sức hấp dẫn của một di tích mà vị trí, cảnh quan, sự tích và lễ hội đều đáp ứng nhu cầu văn hoá tâm linh của người về hành lễ.
3. Lễ hội vật Liễu Đôi (làng Liễu Đôi, xã Liêm Túc, huyện Thanh Liêm)
Lễ hội vật Liễu Đôi là một lễ hội làng tiêu biểu trong lễ hội văn hoá Hà Nam.
Liễu Đôi là một mảnh đất giàu truyền thống thượng võ. Ở đây có hội vật nổi tiếng, thu hút các đô vật gần xa đến tham dự đua tài. Người dân Liễu Đôi lưu truyền rất nhiều truyền thuyết về nguồn gốc của hội vật, có cả những truyền thuyết liên quan đến vật võ và hội vật võ mà di tích còn in dấu đậm đặc trên mảnh đất này. Truyền thuyết Liễu Đôi kể rằng, ở đây có một chàng trai họ Đoàn có sức mạnh phi thường lại giỏi võ, một mình địch nổi năm trai tráng trên sới vật. Một hôm, ở Nương Cửi, tự nhiên có một ánh sáng xanh chói lòa phát ra, dân làng vô cùng hoảng sợ, chỉ có chàng trai họ Đoàn nọ dám đi tới và nhận thấy ánh sáng ấy phát ra từ một thanh gươm đặt trên một tấm khăn đào. Chàng trai bái tạ thần linh, tay cầm gươm, lưng thắt chiếc khăn đào, múa gươm cho dân làng xem. Khi có giặc phương Bắc kéo tới, chàng trai mang gươm ra trận. Trong đoàn quân của chàng có nữ tướng họ Bùi rất dũng cảm, hai người thề ước với nhau. Nhưng không may, chàng trai bị tử trận, thi hài được mang về quê hương. Giặc tan, nữ tướng họ Bùi đến viếng mộ chàng nhưng quá đau thương nên đã chết trên ngựa khi cách mộ chàng chừng vài trăm bước. Dân Liễu Đôi thương nhớ, lập đền Ông thờ chàng, gọi là Thánh Ông, lập đền Bà thờ nữ tướng, gọi là đền Tiên Bà. Hàng năm làng mở hội vật võ để tưởng niệm, gọi là hội Thánh Tiên (gọi tắt hai chữ Thánh Ông - Tiên Bà), đó là hội vật võ Liễu Đôi.
Hội vật Liễu Đôi kéo dài từ mùng 5 tháng Giêng cho đến hết ngày mồng 10 tháng Giêng. Trong không khí Tết Nguyên đán, dân Liễu Đôi làm mọi công việc cần thiết cho hội vật võ. Đoạn đường từ đền Ông đến xới vật (tức Nương Cửi) được dọn quang. Trường diễn hay gọi là dóng vật được chọn đặt trên mảnh đất truyền thống, đó là Nương Cửi, nơi chàng trai họ Đoàn nhận được gươm thần thuở trước. Tham dự hội là dân làng Liễu Đôi và các làng có truyền thống vật võ gần xa. Hội vật võ Liễu Đôi cho phép phụ nữ được tham gia, chị em cũng được ra dóng với đao, côn, kiếm, quyền... không thua kém con trai.
Nghi thức tiến hành hội như sau: Đầu tiên là lễ rước Thánh vào dóng. Dóng tức là nơi tổ chức vật, rước thánh vào dóng tức rước kiệu Thánh Ông từ đền vào nơi tổ chức vật. Lễ vật dâng thánh là lễ chay, gồm mấy phẩm oản, vài bẹ chuối, một nậm trà (thay cho rượu). Một cụ già tay cầm gươm đi giật lùi dẫn đầu cuộc rước, khi kiệu Thánh vào dóng thì làm lễ tế. Sau lễ tế Thánh là lễ phát hỏa. Người ta đốt lên một ngọn lửa lớn để tưởng nhớ lại ngọn lửa xanh thần diệu bốc lên từ thanh gươm phát hỏa mà trời ban cho đất Liễu Đôi ở cánh Nương Cửi. Tiếp đó là lễ trao gươm và thắt khăn đào tưởng nhớ việc chàng trai họ Đoàn nhận thanh gươm thần và tấm khăn đào. Ông Trùm là một người cao tuổi có uy tín được cử cầm trống cái cho hội trao chiếc gươm trên kiệu thánh và thắt khăn đào cho một đô vật danh dự được cử ra ngồi dưới cây dải trước rạp. Sau đó là lễ múa cờ tụ nghĩa, điệu múa này còn có tên là “thiên nhân kì trận”. Điệu múa này có hai hoặc bốn người tham gia, mỗi người một lá cờ đỏ hình vuông, tiến từ hai bên kiệu thánh ra giữa dóng, múa theo hiệu trống. Tiếp theo là lễ thanh động. Lễ này bắt đầu bằng tiếng trống cái ở dóng nổi lên liên hồi cùng với tiếng pháo nổ ran, tiếng chiêng, cồng, mõ, thanh la tại khu vật võ và tất cả các đền chùa trong vùng đều nhất tề hưởng ứng hòa với tiếng reo hò cổ vũ sôi nổi.
Sau những nghi thức kể trên thì đến cuộc vật võ. Hội vật võ có nhiều nghi thức bắt buộc. Đầu tiên là nghi thức gọi là năm keo trai rốt. Trai rốt là hai cậu con trai của làng ra đời cuối cùng trong năm qua. Mở đầu cuộc vật, làng gọi tên hai trai rốt ra vật năm keo trình làng, lễ thánh. Tất nhiên trai rốt hãy còn bé chưa vật được nên bố phải ra vật thay. Lệ quy định, hai ông bố chỉ vật biểu diễn, không được vật thật làm đối phương ngã, bởi vì hai ông bố ra vật với mục đích trình làng, trình Thánh chứng giám để hai đứa trẻ tương lai sẽ trở thành hai đô vật võ. Vì vậy nếu để bị ngã thì làng sẽ bắt phạt cả hai. Có khi bố đi vắng thì ông ra vật thay, không được bỏ cuộc. Với lệ này, người dân Liễu Đôi muốn nhắn nhủ con cháu là sinh ra làm anh con trai thì trước hết phải là trai vật võ.
Tiếp theo là nghi thức đô xã làm nền, có nghĩa là đô Liễu Đôi vào dóng trước, giao đấu trước để gây không khí, khuyến khích tinh thần cho đô vật bốn phương. Khi đô vật bốn phương đã hăng say rồi thì đô vật Liễu Đôi rút ra, nhường dóng cho khách, chỉ đứng ngoài cổ vũ động viên là chính.
Vào giải, ai thắng được 5 keo liền thì được vào vòng giải. Ai thắng hết các đô trong vòng giải thì được giải cọc. Giải cọc là giải đặc biệt, tiếp đến là các giải thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, cuối cùng là giải cuộc trao cho tất cả những người vào dóng vật. Như vậy, cả người thua cũng có giải. Phần thưởng trao giải là tiền hảo tâm của thập phương công đức, ngoài việc chi vào đèn nhang, còn lại bao nhiêu phải chi hết vào giải, nếu còn chút ít thì cho người nghèo ngay tại chỗ, tuyệt không được chi dùng vào việc gì khác.
Vào dóng, đô vật chỉ được đóng khố, không được mặc quần áo. Các đô vật có tục kiêng cởi áo và xỏ áo tay phải trước, vì tay phải là tay cầm giáo, cầm gươm, tay lợi thế trong đấu vật. Cần cởi áo hoặc xỏ áo, họ dùng tay trái trước, vì thế, tay trái còn gọi là tay áo. Trong dóng, những miếng hiểm độc làm hại đối phương bị cấm ngặt. Ai phạm luật bị xử rất nghiêm khắc. Người phạm luật bị phạt đứng giữa dóng cho một đô vật khỏe hơn bê vứt ra khỏi dóng và năm đời con cháu không được tham gia vật võ.
Liên quan đến hội vật võ Liễu Đôi còn có hội thi món ăn đặc sản trước hôm mở hội, món ăn nào được làng chấm giải mới được đem bán phục vụ khách thập phương trong những ngày hội.
Tinh thần thượng võ của người dân Liễu Đôi còn được thể hiện ở lễ trảm tự, được tiến hành vào đêm 30 Tết tại chùa Ba Chạ. Trảm tự có nghĩa là chém chữ. Tương truyền có một vị tướng đời nhà Trần khi về đây thao binh luyện tướng đến khi ra quân đã trao lại cho 5 làng của xã Liễu Đôi một cuốn binh thư có tên là Võ trận. Người dân Liễu Đôi truyền đời phải học thuộc cuốn binh thư đó. Đêm 30 Tết, các tộc trưởng đeo gươm vào đền thờ Thánh trước mặt là băng giấy ghi chữ đầu trang của tập Võ trận. Đúng giao thừa, đèn nến vụt tắt, mỗi tộc trưởng vung gươm chém một nhát lên băng giấy trước mặt. Chém được đoạn giấy nào thì nhận lấy đoạn giấy ấy. Xong lễ, đèn nến sáng trở lại, từng họ xem các chữ đầu của bằng giấy biết được họ mình năm đó phải học thuộc đoạn nào trong sách. Nhiều năm như thế, các dòng họ có thể thuộc lòng quyển binh thư. Đến thời Pháp thuộc, việc dùng gươm chém bằng giấy đã được thay bằng việc rút thẻ. Ngày nay, cuốn Võ trận không còn nên lễ trảm tự cũng không còn, nhưng kí ức về tục lệ đó đã chứng tỏ tinh thần thượng võ sâu đậm của người dân Liễu Đôi.
II. LỄ HỘI LỊCH SỬ
Cũng như nhiều địa phương khác trên đất Việt Nam, rất nhiều địa phương của Hà Nam thờ các nhân vật lịch sử, phổ biến nhất là ở đình làng. Đình là trung tâm văn hóa tinh thần của làng, nơi giữ gìn các giá trị tinh thần mà cộng đồng làng đã đúc kết từ cuộc sống cộng đồng, trong sự chống chọi với vô vàn thử thách của thiên tai và giặc giã. Trong cuộc đối chọi nhiều khi không cân sức đó, mỗi một cộng đồng nhỏ bé đã tìm thấy cho mình một vị anh hùng, là người có công lao giúp họ vượt qua những thử thách khốc liệt của hoàn cảnh (như mở làng lập ấp, chống thiên tai, đánh giặc, chữa dịch bệnh, dạy nghề...) đã trở thành chỗ dựa về mặt tinh thần của cả cộng đồng, chở che họ trong những phen nguy khốn, trở thành biểu tượng thiêng liêng có thực giữa cuộc sống phàm trần có sức nâng đỡ con người vượt qua sự hữu hạn của chính bản thân họ để hướng tới khát vọng về cái phúc cao cả. Vì vậy, vị thành hoàng mà ngôi đình làng thờ cúng có một uy lực tuyệt đối đối với dân làng. Trong hoàn cảnh Việt Nam, vị thành hoàng ấy, cùng với quá trình sống dài lâu của một làng, thường hiện diện ở bề nổi là những nhân vật lịch sử. Vì vậy, lễ hội đình thường là lễ hội tưởng niệm một nhân vật lịch sử có liên quan với làng.
Ngoài ra, còn có một số nhân vật lịch sử được thờ ở đền. Đó thường là những nhân vật lịch sử mà công lao, vai trò, ý nghĩa của họ vượt khỏi phạm vi của một địa phương cụ thể mà mang tầm quốc gia dân tộc (ví dụ đền Trần Thương thờ vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, đền Trúc thờ danh tướng Lý Thường Kiệt). Việc các địa phương lập đền thờ nhân vật lịch sử đó không phải ngẫu nhiên mà là do vùng đất ấy có những mối quan hệ cụ thể với nhân vật lịch sử được thờ, chẳng hạn có khi là quê hương, có khi là nơi sinh hoặc nơi hóa của vị anh hùng, có khi đó là địa điểm ghi dấu chiến công hoặc những sự kiện có thật mà sinh thời người anh hùng đã in dấu tại địa phương đó... Do chồng chất nhiều tầng văn hóa, trong lễ hội các nhân vật lịch sử có thể tàng ẩn nhiều vỉa tầng văn hóa được chưng cất, được tích tụ nhiều đời thông qua những biểu tượng. Dưới đây, là một số lễ hội tiêu biểu.
1. Lễ hội đình Thọ Chương (xã Đạo Lý, huyện Lý Nhân)
Đình thờ ông Vũ Lang Nữu, quê ở Thọ Chương, là người có công dẹp giặc, nhờ vậy dân Thọ Chương được nhà vua miễn trừ sưu thuế tạp dịch. Đây là một nhân vật mang tính huyền thoại tiêu biểu của vùng đồng bằng nông thôn Bắc Bộ với những chiến công, những kì tích chống thiên tai và chống giặc ngoại xâm.
Đình Thọ Chương là một ngôi đình lớn ở xã Đạo Lý, huyện Lý Nhân (xưa kia là đình thôn Hạ, xã Vũ Xá, tổng Ngu Nhuế, huyện Nam Xang). Hàng năm, vào các ngày 4 đến 6 tháng Giêng, nhân dân Thọ Chương nô nức kỉ niệm ngày ông Vũ Lang Nữu thắng trận trở về quê hương, cũng là ngày xã Vũ Xá xưa được triều đình công bố lệnh miễn trừ sưu thuế, tạp dịch. Nghi lễ diễn ra trang trọng. Các giáp Bến, Đoài, Đông, Hệ, Trúc và Giữa thi làm cỗ cúng thành hoàng. Giáp nào cũng chọn gà to, gà béo làm thịt, gài cánh lên đầu, treo túi tiền vào mỏ mới đặt lên ban thờ. Cúng thành hoàng còn có lệ thi làm bánh dày, thi lợn béo. Ngày 20 tháng 7 âm lịch là ngày ông Vũ Lang Nữu qua đời, dân làng cũng tổ chức tế lễ, đọc văn tế ôn lại tiểu sử, nhắc nhở mọi người nhớ ơn thành hoàng.
Song đông vui nhất là dịp dân làng mở hội từ ngày 8 đến ngày 12 tháng Giêng. Hội làng Thọ Chương cũng như làng Đồng Lâu gần đó ngoài việc tôn vinh thành hoàng còn có ý nghĩa khuyến khích nghề truyền thống quê hương. Trong bài hát của lễ hội có câu:
Vũ Xá đan gầu
Đồng Lâu kéo sợi
Hai bên chờ đợi
Mồng tám, mười hai
Lệ định từ xưa: kiệu được rước từ Đồng Lâu lên Thọ Chương rồi rước quay trở lại. Cả hai đình đều tổ chức tế lễ, ăn giao hảo ngày mồng 8, đến tối, làng Đồng Lâu mới rước kiệu ra về. Ngày 12, Thọ Chương rước sang Đồng Lâu, chiều lại rước về. Những ngày có đám rước, nhân dân địa phương náo nức tham dự. Nhà nhà đón mời khách thưởng thức chén trà ngon, miếng trầu têm khéo.
Các buổi tối trong hội đình Thọ Chương thường tổ chức diễn chèo. Bức đại tự ghi 4 chữ Vũ ấp huyền ca nhắc nhở dân làng nhớ tới tục lệ ca hát trong lễ hội. Hội làng Thọ Chương không chỉ có rước xách tế lễ, ca hát mà còn có nhiều trò vui như đấu cờ tướng, đấu vật, chơi tổ tôm điếm, trong đó đấu vật là trò chơi cuốn hút nhất. Ngoài các đô vật ở làng, còn có các đô vật ở các xã khác như Đồng Lư, Đồng Yên, Mạc Thượng, Mạc Hạ, Phúc Châu về cùng tham dự giải. Các đô vật Thọ Chương thường được giải cao vì tương truyền ở đây xưa kia có người đàn ông rất khỏe, mỗi khi đưa bò ra đồng, ông thường cắp bò ngang hông, do đó, ông được gọi là xã khỏe. Khi vào xới, ông thường giật giải cao về cho làng và để lại truyền thống thượng võ cho dân làng.
Lễ hội đình Thọ Chương cho thấy một điều là, trước khi thờ cúng vị anh hùng của làng, dân làng đã thờ cúng vị tổ nghề. Sự kết nghĩa giao hảo của hai làng Vũ Xá và Đồng Lâu và lễ hội tưng bừng của hai làng càng cho thấy lớp văn hóa sâu xa của việc thờ cúng thành hoàng ở đây. Hai mặt của cuộc sống: làm ăn và đánh giặc luôn đan quyện vào nhau, và ước muốn về một cuộc sống hòa bình an lạc đã được gửi gắm trong niềm tin tưởng về vị thành hoàng mà ý nghĩa mới không làm mờ đi những lớp nghĩa xa xưa.
2. Lễ hội đền Trúc (thôn Quyển Sơn, xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng)
Đền Trúc thờ danh tướng Lý Thường Kiệt. Hàng năm, nhân dân thôn Quyển Sơn mở cửa đền mở hội từ ngày mùng 1 Tết Nguyên đán đến 10 tháng hai âm lịch. Lễ hội được mở vào những ngày nông nhàn nên dân quanh vùng và du khách thập phương nô nức kéo về dự hội. Không gian lễ hội từ xưa mở rộng từ đình Trung đến đền Trúc, chùa Thi và ven núi Cấm.
Từ sáng sớm, đoàn rước kiệu từ đền đã về tới cửa đình làm lễ dâng hương. Sau đó, các đội tế trong trang phục tế đủ màu làm lễ tạ ơn Trời Phật. Sau nghi lễ cáo trời đất, thành hoàng chừng 3 tiếng đồng hồ thì đến các trò chơi như thi kéo co, đấu vật, chọi gà, chơi cờ bỏi... Song nét đặc sắc nhất của lễ hội đền Trúc phải kể đến là múa hát Dậm và đua thuyền.
Múa hát Dậm là lối múa hát tương truyền Lý Thường Kiệt bày cho dân trong vùng khi ông thắng trận trở về dừng lại nghỉ ở đất này. Từ đó, vào dịp hội đền, nhân dân tổ chức múa hát Dậm để tưởng niệm vị anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt. Sáng mùng 1 tháng 2 âm lịch, làng chính thức mở hội rước tượng Phật cùng bài vị thờ Lý Thường Kiệt từ đền về đình làng. Sau phần lễ là phần múa hát thờ thánh. Hát Dậm được biểu diễn liên tục 6 ngày. Đến sáng mùng 7 lại rước tượng Phật cùng bài vị của Lý Thường Kiệt về đền, hát Dậm vẫn tiếp tục trong 3 ngày nữa (gọi là hát yên vị) và đến 10 tháng 2 thì đóng cửa đền, vãn hội.
Múa hát Dậm được tổ chức ngay tại sân đền. Phường hát có từ 16 đến 20 cô gái thanh tân với trang phục mũ đỏ, quần áo dài trắng, dải yếm lụa đỏ đứng làm hai hàng do một cụ trùm, là người nắm vững các động tác, thuộc các làn điệu và lời ca, chỉ đạo múa hát. Trong múa hát Dậm, điệu múa có các động tác mô phỏng các động tác chèo thuyền, lúc đứng hát cũng như khi quỳ lạy (gọi là chèo thuyền và chèo quỳ). Đây được coi là phần lễ gắn bó mật thiết với phần hội là hội đua thuyền trên sông Đáy.
Hội đua thuyền được tổ chức vào ngày mùng 6 tháng 2. Ngược với hát Dậm, chỉ có nam giới mới được tham gia cuộc đua này. Số lượng thuyền đua tùy theo từng năm, thường có 3 thuyền dự thi. Ba đội đua với trang phục có màu sắc khác nhau. Thuyền đua được đóng bằng gỗ, dài khoảng 8m, đầu và thuyền được đóng vuông. Phía trên đầu thuyền có gắn đầu rồng bằng gỗ và cắm một lá cờ hội nhỏ. Đoạn đường đua dài gần 3km trên sông Đáy. Điểm xuất phát từ trước cửa đền Trúc, đua đến chân cầu Quế rồi vòng trở lại. Mỗi thuyền đua gồm 18 người: 1 người lái thuyền, 16 tay chèo, 1 người gõ nhịp chỉ huy. Mỗi nhịp gõ, mỗi câu hò là một nhịp chèo tạo nên sự nhịp nhàng rất cao. Khán giả đến xem cổ vũ rất đông, tiếng hò reo vang dội cả một vùng. Kết thúc cuộc thi, đội thắng cuộc sẽ nhận được phần thưởng. Cuộc đua thuyền trên sông Đáy này mang rất nhiều tầng ý nghĩa. Ngoài ý nghĩa là một cuộc đua mang tính thể thao, nó còn là một nghi lễ tưởng niệm cuộc hành quân của Lý Thường Kiệt trên sông trong lần tiễu phạt quân Chiêm Thành. Và cổ xưa hơn nữa, đây là một hoạt động tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước thể hiện khát vọng thoát khỏi thiên tai lũ lụt, cầu mong mưa thuận gió hòa cho mùa màng tốt tươi. Hơn nữa, không khí sôi nổi và cuốn hút của lễ hội đền Trúc được tạo ra từ màn múa hát thờ do các cô gái thể hiện trong sân đền và cuộc đua thuyền do nam giới tiến hành trên đoạn sông Đáy trước cửa đền chính là sự diễn tả lại không khí khải hoàn ca thắng lợi của cuộc bình Chiêm trong lịch sử dân tộc. Đó là các tầng ý nghĩa văn hóa sâu xa của lễ hội đền Trúc trên mảnh đất giàu truyền thống Quyển Sơn.
3. Lễ hội đình Đinh (thôn Đinh, xã Đinh Xá, huyện Bình Lục)
Đình Đinh thờ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng cùng con ông là Đông Xứng Đại Vương Đoàn Văn, các trung thần của triều Lý, Đông Bảng Đại Vương triều Lê cùng các vị tiên hiền, các vị có công lập làng. Tương truyền, đình Đinh là nơi mà Đoàn Thượng Đại Vương đến tìm thầy học và cũng là quê vợ của ông. Khi ông mất, con trai ông là Đoàn Văn cùng dân làng Đinh lập đền thờ. Hàng năm, cứ vào ngày sinh của Đông Hải Đại vương Đoàn Thượng (10 tháng Giêng âm lịch), làng Đinh lại tổ chức lễ hội để tưởng nhớ bậc trung thần. Lễ hội được tổ chức từ ngày 9 đến 12 tháng Giêng âm lịch. Ngoài tế lễ, dâng hương, lễ hội đình Đinh còn có lễ rước nước và lễ khai độc.
Cứ 3 năm một lần, làng Đinh và làng Thủy Cơ (xã Châu Sơn, huyện Duy Tiên) lại tổ chức lễ rước nước để tưởng niệm vị Đông Hải Đại Vương và để thể hiện mối giao hảo giữa hai làng. Thủy Cơ là một làng chài chuyên nghề sông nước. Làng Đinh đã dành một khu đất cho làng Thủy Cơ để mộ khi có người qua đời. Do đó, hai làng có mối quan hệ rất thân thiết. Khi vào lễ hội, làng Thủy Cơ cung cấp 5 chiếc thuyền lớn để đi rước nước. Ngày mùng 9, đình Đinh mở cửa, dân hai làng vào lễ thánh, sau đó rước kiệu, cờ, bát biểu, chiêng trống, đội bát âm cùng đội bơi chải xuống thuyền. Trên thuyền có hai chóe sành được mang theo để đựng nước. Đoàn thuyền bơi đến ngã ba sông Móng, bơi rước 3 vòng, sau đó lấy nước đựng vào chóe, dâng lên kiệu rồi bơi thuyền trở về đình. Chóe nước được đưa vào đình để hôm sau tế lễ. Đội hình tế là tế nam, có chủ tế, xướng tế và bồi tế. Khi tế, đội hình tiến từ sân đình qua tiền đường, vào hậu cung. Trong khi tế, ngoài sân đình có múa rồng, sư tử, đánh gậy, thổi cơm thi, bắt chạch, trên sông Châu thì tổ chức bơi chải.
Xưa kia, hàng năm cũng vào dịp lễ hội mùng 10 tháng Giêng, ở đình có tổ chức lễ khai độc (mang sắc phong ra đọc dịp đầu năm mới) do hàng xã chủ trì. Chủ tế là chánh tiên chỉ, các tiên chỉ làng là bồi tế. Trước khi vào ngày lễ, tối mùng 9 có rước sắc từ nhà tiên chỉ ra đình rồi làm lễ khai độc. Ngày mùng 10 tổ chức rước hành ngơi (đi chơi trên đường) có kiệu, có cờ quạt, bát biểu... Ngày 11, sau khi tế tạ xong, rước lô nhang sắc và các sắc phong về nhà tiên chỉ, đóng cửa đình.
4. Lễ hội đền Trần Thương (thôn Trần Thương, xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân)
Cũng như những nơi khác thờ Hưng Đạo Đại Vương, đền Trần Thương tổ chức lễ hội tưởng nhớ vị anh hùng dân tộc này vào ngày 20 tháng 8 âm lịch hàng năm. Dân gian có câu Tháng Tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ là để nói đến hai lễ hội lớn về hai vị thánh: Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo), Đức Thánh Mẫu (Liễu Hạnh). Lễ hội theo quy định được tổ chức 3 ngày nhưng trên thực tế có thể dài hơn, bởi vì số lượng người về lễ đăng kí dự tế khá đông nên cần thêm ngày để bố trí cho các đội tế. Mỗi ngày có 4 đến 5 đám tế, từ rằm tháng 8 đã có đoàn đến tế ở đền.
Vào ngày chính hội, phần lễ có rước kiệu, dâng hương, tế lễ, phần hội có các trò đánh cờ tướng, bơi chải, đi cầu kiều, tổ tôm điếm... Thu hút sự quan tâm của nhiều người nhất vẫn là tục thi đấu cờ tướng. Tục này diễn ra trước các trò hội. Khi tiếng trống nổi lên báo hiệu cuộc chơi thì các đấu thủ cùng dân làng đến sân đền tham dự. Làng chọn các lão làng, các chức sắc có gia phong tốt vào khai cuộc, trong đó người cao tuổi nhất được chọn làm chủ tế. Chủ tế làm lễ cáo yết Đức Thánh Trần rồi rước bàn cờ từ hậu cung quay ra, đến trước hương án nâng bàn cờ lên vái ba vái. Sau đó, cuộc chơi bắt đầu. Hai đấu thủ mang y phục truyền thống của các tướng lĩnh đời Trần mang thanh long đao vào cuộc. Sau một tuần hương, ai thắng, người đó đoạt giải. Vãn cuộc, quân cờ cùng bàn cờ được rửa bằng nước giếng của đền và nước ngũ quả, lau chùi cẩn thận rồi đặt lên hương án. Tục chơi cờ nhằm tưởng nhớ tài thao lược quân sự của Trần Hưng Đạo Đại Vương, rèn luyện trí tuệ, nêu cao truyền thống chống giặc ngoại xâm của cha ông.
Lễ hội đền Trần Thương là một trong 5 lễ hội vùng của tỉnh Hà Nam. Lễ hội này có ý nghĩa là một cuộc hành hương về cội nguồn không chỉ đối với người dân địa phương mà đối với người dân cả nước.
III. LỄ HỘI NÔNG NGHIỆP
1. Lễ hội làng Gừa (xã Liêm Thuận, huyện Thanh Liêm)
Lễ hội làng Gừa nhằm để tưởng niệm một vị tướng thời Đinh, song nội dung diễn ra chủ yếu là những sinh hoạt tế lễ mang tính chất của một lễ hội nông nghiệp.
Đình làng Gừa thờ vị tướng tài của Đinh Bộ Lĩnh tên là Trương Nguyên, người làng Gừa. Thần phả kể rằng sau khi dẹp xong loạn 12 sứ quân, vua Đinh làm lễ thưởng công cho các bậc khanh tướng. Ông Trương được ban quốc tính (họ Đinh) nhưng ông từ chối và dâng biểu xin về quê nuôi dưỡng cha mẹ. Khi ông chết, vua Đinh cho ruộng cấy, cắt đinh phu giao cho vùng Ninh Cơ (làng Gừa ngày nay) lập đình thờ cúng.
Lễ hội làng Gừa ngày nay có tế lễ, rước xách và rất nhiều trò vui thể hiện tinh thần thượng võ như đánh đu, đánh vật, chém mía, cướp cầu. Ban đêm có hát chèo-tuồng, phần nhiều là các tiết mục tự biên, tự diễn. Trống lễ, trống rước, trống hội, trống chèo rậm rịch ngày đêm làm cho khí thế của lễ hội càng thêm náo nhiệt. Nhưng đặc biệt nhất là trò chơi cướp cầu. Tương truyền, khi ông Trương Nguyên từ Hoa Lư về quê có mang theo một quả cầu, một dụng cụ để luyện tập binh sĩ. Khi về làng ông bày trò chơi cho toàn dân. Đến nay, trong lễ hội thờ ông, cướp cầu đã trở thành một nghi lễ không thể thiếu. Quả cầu bằng gỗ, kích thước xấp xỉ như quả bóng chuyền ngày nay, được sơn son thếp vàng và trang trí vẽ mây sóng trên bề mặt. Quả cầu là thánh vật của làng Gừa, đến nay đã bị tróc sơn, các hoa văn họa tiết cũng không còn được rõ nét. Hàng năm chỉ có ngày lễ hội mới được mang cầu ra chơi và bao giờ cũng được tổ chức đầu tiên để khai cuộc. Hội được tổ chức vào ngày mồng 4 tháng Giêng hàng năm. Từ mờ sáng ngày mồng 4, cửa đình đã rộng mở, đèn thắp sáng, khói hương nghi ngút. Trong nổi giục giã dân làng tới đình. Dân làng chọn lão nông hoặc người có chức sắc, gia đình thuận hòa, nền nếp làm chủ tế. Đúng giờ Tỵ, trò cướp cầu bắt đầu. Đội nào thắng sẽ được vào cung hồi trống, tế thánh khai hội và họ tin rằng mọi ước nguyện cũng sẽ linh ứng. Trò cướp cầu này còn có cả trong hội làng An Mông (làng Móng) xã Tiên Phong, huyện Duy Tiên. Tục cướp cầu nơi đây thể hiện sự tôn vinh đối với vị anh hùng của quê hương và tinh thần thượng võ của người dân Duy Tiên.
2. Lễ hội Đình Đá (thôn An Mông, xã Tiên Phong, huyện Duy Tiên)
Đình Đá thờ Nguyệt Nga công chúa, một tướng tài của Hai Bà Trưng. Ngoài ngày sinh (ngày rằm tháng bảy) và ngày hóa (ngày 12 tháng mười) có tổ chức tế lễ, dâng hương, các ngày hội đầu xuân được tổ chức vào ba ngày 6, 7, 8 tháng Giêng. Trong hội có tế lễ, rước kiệu Nguyệt Nga công chúa, song nội dung chủ yếu của lễ hội này mang tính chất một lễ hội nông nghiệp với lễ tế thần nông và các hội thi như vật cầu, đua thuyền.
Trong lễ tế thần nông, sau khi chủ tế và các bồi tế làm xong nghi thức dâng hương, dâng rượu, đọc sớ tấu cầu mong bình yên cho dân làng, cầu mong mùa màng tươi tốt thì tiếp theo là phần rước hương án tế thần ra khu ruộng gần đình đã được cày bừa chuẩn bị sẵn. Đoàn người đi theo hương án tế thần, có cả người gánh vài bó mạ, dăm cây lau, tay cầm cành tre, con dao và bó hom dâu. Khi ra tới ruộng cấy lúa và bãi trồng dâu thì đoàn người đặt hương án trên bờ ruộng, còn dân làng thì đứng vây quanh. Chủ tế và bồi tế là người được phân công thay mặt dân làng lội xuống ruộng cấy ít hàng lúa và trồng ít hom dâu tượng trưng. Dân làng vây quanh hò reo, hòa với tiếng chiêng trống tỏ niềm vui mừng, đón chờ một mùa bội thu sắp tới. Cùng với tiếng hò reo, dân làng còn té nước ruộng vào người cấy, người gánh mạ, người vác hom dâu, người cắm cành tre, cắm cây lau dưới ruộng. Mọi người cầu mong mưa thuận gió hòa cho cây lúa, cây dâu lên khỏe như lau, cứng như tre, vượt qua mọi thời tiết khắc nghiệt để có một vụ mùa lúa, mùa dâu tươi tốt, dân làng có cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Trò đua thuyền trên sông Châu được tổ chức tại khu ngã ba sông ở phía đông xã Tiên Phong (hiện nay là đập Quang Trung). Tương truyền, đó là nơi bà Nguyệt Nga tử tiết và là nơi thuyền rồng xuất hiện đón bà xuống thủy cung. Hội thi thường tổ chức hai chiếc thuyền lớn, đầu làm như hình rồng, đuôi tựa đuôi tôm. Mỗi thuyền bố trí một người lái, một người mặc áo đỏ, chít khăn, tay cầm mõ, gõ theo nhịp chèo động viên đội bơi. Mũi thuyền có hai phách cầm chèo hai bên để bắt nhịp cho các mái chèo, mỗi bên mạn thuyền có 12 người chèo. Như vậy, mỗi thuyền bơi thi phải huy động tới 28 người có áo, quần, khăn đồng bộ, tắm gội sạch sẽ, lên đình lễ thánh rồi mới được nhập đội thi. Đường bơi thường tổ chức trên đoạn sông dài hơn một cây số, có thể bơi hai hoặc ba vòng, thuyền của giáp nào về đích giật được cành nêu trước là thắng cuộc. Giáp thắng cuộc sẽ được giải thưởng, đồng thời cùng cả giáp ăn mừng thắng lợi. Năm ấy mọi người tin rằng được thánh phù hộ sẽ gặp may mắn.
Trò vật cầu được tổ chức để tưởng niệm việc luyện quân của bà Nguyệt Nga. Theo truyền thuyết, bà thường tổ chức trò chơi này để tăng cường sức khỏe cho quân lính. Hội vật cầu ở đây cũng có nhiều nét tương tự với hội vật cầu ở làng Gừa (xã Liêm Thuận, huyện Thanh Liêm), nhưng có nét khác biệt là có hội vật cầu lão (cho đàn ông trên 50 tuổi) và hội vật cầu giai (cho đàn ông dưới 50 tuổi). Tính chất lễ và tính chất hội đậm đà của hội thi này làm nên không khí tưng bừng náo nhiệt của ngày hội đầu xuân, thể hiện nhu cầu thăng hoa tinh thần cao cả của người dân trong lễ hội.
3. Hội thi thả diều (thôn Đại Hoàng, xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân)
Thôn Đại Hoàng từ xưa đã có hội thả diều để mừng được mùa và cầu mong an khang thịnh vượng.
Địa điểm tổ chức thi thả diều ở đình nội, đình ngoại và đình trung. Phía trước đình là hồ cá và đầm sen, trước nữa là cánh đồng làng đất cát pha, tháng năm sau vụ gặt rất khô ráo và bằng phẳng. Khu đình, hồ cá, đầm sen, đồng làng đều hướng về phía đông nam. Do vậy, khi đàn diều no gió bay lên cao thì đều theo gió đông nam mà hướng về phía đình thờ thành hoàng, trông giống như đàn chim bay về tổ.
Trước đình làng có một cổng lớn, trên nóc cổng có phù điêu bọc trứng rồng tượng trưng cho cộng đồng tổ tiên nòi giống Việt. Cột cờ là một cây gỗ lim đồ sộ, một người ôm không xuể, được đặt trên một bệ đá lớn. Trên đỉnh cột cờ có hình một con chim lớn, kéo dải cờ đào dài 20 mét bay trên cao.
Cả mười bốn giáp trong thôn đều tham gia thi thả diều, mỗi giáp có một màu riêng để dễ phân biệt. Việc làm diều được chuẩn bị chu đáo từ tháng 11 âm lịch năm trước. Các cụ già thường chọn các cây tre già dài, thẳng, mịn đã rụng hết lá để pha, chẻ, chuốt thành các nẹp làm khung diều, gác lên bếp hong cho khô tới tháng 5 năm sau. Vào tháng 4, các cụ còn lấy nhựa từ trái hồng non làm keo dính dán bồi giấy, dán giấy lên khung diều. Dây diều to được xe bằng tơ tằm, dây diều nhỏ được kết bằng chỉ khâu. Ngoài ra còn phải làm một ống suốt cực lớn, hai đầu có bánh xe để cuộn dây, nhả dây nhanh.
Hình dáng của diều thôn Đại Hoàng đều có hình thoi, phẳng. Khi diều bay trên cao, cánh phẳng, thanh thoát, khi diều hạ cánh, cánh diều lao vút như một mũi kiếm đâm xuyên lòng đất.
Sáng ngày 15-5 âm lịch, dân làng bắt đầu thi diều lớn. Một hồi trống chiêng nổi lên giòn giã. Ban chủ khảo và các đấu thủ đều ăn mặc đẹp, đầu chít khăn, áo dài, quần bó, thắt lưng ngũ sắc. Mỗi đội có 3 người tham gia, một người cầm dây diều, một người điều khiển diều, một người lao diều lên cao. Khi các đấu thủ đã đứng vào vị trí trên cánh đồng làng, ban chủ khảo thắp hương để tính giờ. Một hồi trống nổi lên, loa bắt đầu gọi, diều được đồng loạt lao lên, ăn dây. Người điều khiển phải giật dây, chỉnh cho diều lên thật từ từ. Khi no gió, diều lao vút lên cao, đậu trên tầng không, trông nhỏ dần, nhỏ dần đến khi trông như một chiếc lá. Tiếp đó lại một hồi trống nữa, có tiếng loa truyền: Loa! Loa! Các diều đấu dây vào nhau để bắt đầu chấm giải. Trên cánh đồng, các đấu thủ đi về một điểm. Trong sân đình, ban chủ khảo bàn bạc để chấm giải diều. Tiếp đó, diều được lệnh cho hạ cánh. Cách mặt đất chừng 30 mét, diều được điều khiển sao cho lao xuống như một mũi tên bắn thẳng, cắm đứng trên cánh đồng. Xong xuôi các đấu thủ cùng về sân đình nghe chủ khảo tuyên bố giải.
(Còn nữa)
Điện tử