Phần I Địa lý (Chương XXXI - Phần 2)

Phần I Địa lý Chương XXXI

Phần I Địa lý Chương XXXI

(Tiếp theo Chương XXXI)

-    Có Đất - Tổ quốc che chở thì không kẻ thù nào thắng nổi. Rời khỏi Đất - Tổ quốc là nguy hiểm cho tính mạng ngay.

-    Vị tướng họ Đoàn, do sơ suất, chỉ để mất đi một chút Đất - Tổ quốc   trên thân mình đã đến nỗi hy sinh!

-    Nhưng hy sinh rồi, đôi mắt căm thù, cảnh giác, vẫn cứ trừng trừng nhìn

về hướng Bắc. Nhân dân Liễu Đôi, chiều theo ý muốn của vị tướng ấy, đã xây dựng đền thờ ông, cửa chính nhìn về hướng Bắc! Chết rồi, mà ông vẫn luôn luôn muốn nhắn nhủ dân ta phải cảnh giác với quân thù từ hướng ấy. Những lời nhắc  nhủ từ xa xưa thuở trước, ngày nay vẫn có ý nghĩa sâu sắc biết bao!

Hay Truyện ông Mổ bụng lại kể như sau:

-    Chỉ một con người có binh thư, binh pháp hay, giỏi, cũng không thể thắng giặc được.

-    Phải làm cho binh thư, binh pháp ấy đi vào trăm họ các dân tộc Việt Nam, mới tạo ra được sức mạnh trăm trận trăm thắng.

-    Ông đã tự mổ bụng có chứa binh thư, binh pháp của mình, chia chung cho tất cả mọi người. Chia đến cuối cùng, thì ông anh dũng bỏ mình vì đại nghĩa.

Truyện Nàng Trăm sắc đã kể về Nàng Trăm sắc khi bị lũ giặc Ngô, do tranh nhau quyết liệt người con gái đẹp Việt Nam, không đứa nào chịu đứa nào, chúng đã băm nàng ra làm trăm mảnh. Lạ thay từ mỗi mảnh thịt xương “căm thù biến thành sức mạnh ghê gớm” của người con gái đẹp ấy đã hóa thành trăm ngàn chiến sĩ vung gươm diệt thù! Như vậy, khi còn sống, cô là người con gái rất đẹp của đất đồng chiêm. Đến lúc bị giặc băm nát thân thể, thì từng mảnh thịt xương ngọc ngà của cô được gieo xuống đồng nước quê nhà, lại có sức nhiệm màu, biến thành vô vàn chiến sĩ cưỡi sóng đồng chiêm, xông lên dũng mãnh diệt tan tành quân giặc. Truyện này, ngoài môtip “căm thù biến thành sức mạnh”, cũng có người hiểu thêm về “tinh thần xả thân vì quê hương, đất nước”, với sức tưởng tượng văn học thật sinh động, hào hùng, có thể đưa vào thơ, nhạc, múa... cũng rất đắt.

 

Truyện Nàng Vú Thúng kể lại việc hàng trăm vạn hùng binh của Tổ quốc Việt Nam đều do bà mẹ Việt Nam sinh ra và được dòng sữa trong lành của vú mẹ nuôi clưỡng mau khôn lớn, do vậy mà đất nước ta không bao giờ thiếu anh hùng đánh giặc. Đồng thời với quân đông là nhiều tướng giỏi - anh hùng thì quân sĩ mới chiến đấu được. Câu chuyện thể hiện mối quan hệ tất yếu về bà mẹ, về tướng giỏi, về đội quân anh hùng.

Tựu chung lại, truyện cổ của Hà Nam thể hiện những nội dung cơ bản sau:

1.   Truyện cổ thể hiện tinh thần thượng võ của nhân dân Hà Nam được gắn bó với truyền thống anh hùng của dân tộc

Truyện cổ Hà Nam và đặc biệt là truyện cổ vùng Liễu Đôi đã thể hiện sâu sắc tinh thần thượng võ, lòng say mê sới vật, côn, kiếm... của nhân dân nơi này. Vật võ đối với nhân dân như một nhu cầu tinh thần và thể xác, nó hết sức thiêng liêng như phép màu và cũng rất gần gũi như cơm ăn nước uống. Câu chuyện Truyện ông Mổ bụng tiêu biểu cho việc ngợi ca vật võ, thường leo lên cây cao nhìn vào các lò vật để học mót, học lỏm đến nỗi mê mải có lần ngã suýt chết. Chàng đã được thần linh ban cho quyển sách võ ở trong bụng, chàng đau bụng và tự mổ bụng mình ra để lấy quyển sách võ linh thiêng. Nhờ có sách, nhờ chăm chỉ luyện tập, chàng đã trở thành một người thao lược toàn tài, nức tiếng gần xa. Học trò tới học võ của chàng có tới hàng nghìn. Nhờ đó mà khi đất nước lâm nguy, giặc giã xâm phạm bờ cõi, nhân dân trong vùng đã dũng cảm đứng ra chống giặc. Chàng trai đã lại tự mổ bụng mình lấy sách võ truyền sức mạnh cho mọi người và cuối cùng đã hy sinh anh dũng, chàng được nhân dân trong vùng thờ phụng mãi mãi.

Một câu chuyện khác cũng chung một chủ đề như trên, đó là Truyện ông Rút sườn kể về nhân vật Bạch Thổn, một đô vật đã hạ gục nhiều người, có sức mạnh phi thường. Tài vật võ hơn người mà chàng có được cũng chính là do chàng có phép màu rút được sườn ra để lấy hơi quật ngã đối phương và chàng trai đã chia những chiếc xương sườn ấy ra cho mọi người để giúp đỡ họ có thêm sức mạnh để chống giặc cứu nước.

Những câu chuyện có chung một chủ đề ca ngợi tinh thần thượng võ như trên là hết sức phổ biến trong kho tàng truyện cổ Hà Nam. Đó là Truyện đánh giặc bằng ngón tay cái, kể về chàng trai đất Liễu Đôi ham mê vật võ, được tiên ông cho móng tay dài, chàng đã dùng móng tay ấy búng ra lửa sét để diệt giặc cứu nước. Đó còn là Truyện người đơm đó được móng tay vàng, kể vể chàng trai làm nghề đơm đó được thần cho thanh gươm vàng và nhờ tài võ nghệ, chàng đã đem gươm vàng đi đánh tan quân giặc. Hay như Truyện cánh tay thần chỉ gươm mười thước, kể về sự tích vị tướng nhờ có tài thao lược và nhờ được ban cho cánh tay thần là lưỡi gươm mười thước nên có tài luyện binh khiển tướng. Nơi ông trao lưỡi kiếm thần gửi lại cho dân năm thôn đã trở nên nổi tiếng về truyền thống thượng võ, đánh giặc cứu nước... Tinh thần thượng võ đặc biệt thể hiện ở câu chuyện kể về Truyện ông trạng vật “Chàng đóng khố đỏ, mặt vuông cằm rộng, cổ đỏ như cổ gà chọi, bước đi sụt cả đất. Chàng cất tiếng réo gọi ông Địa làm kinh động cả một vùng”. Chàng trai ấy đã diệt hết yêu ma quỷ quái giúp yên thôn làng, rồi lại đem hết sức lực truyền dạy võ nghệ cho mọi người. Hội vật võ mở ra khắp nơi, và chàng là người vô địch, nên được gọi là Trạng Vật. Khi đất nước có giặc ngoại xâm, Trạng Vật mang gươm đi cứu nước. Người Liễu Đôi muôn đời nay đã lập đền thờ Trạng Vật... Tương tự như vậy, những truyện như Truyện đô mười vía, Truyện ông trạng đốt đuốc, truyện ông nhấc bổng, truyện người mài gươm... đều phản ánh tinh thần thượng võ của người dân Hà Nam xưa.

2.       Truyện cổ thể hiện tinh thần yêu nước, truyền thống chống giặc ngoại xâm của nhân dân Hà Nam

Kho tàng truyện cổ Hà Nam còn thể hiện một nội dung sâu sắc và cơ bản khác nữa là tinh thần yêu nước nồng nàn và truyền thống chống giặc ngoại xâm quật cường của người dân Hà Nam. Trong số lượng truyện đã được sưu tầm, thì những truyện phản ánh nội dung này đã chiếm một vị trí đáng kể. Có thể nói ở bất kỳ câu chuyện nào được lưu truyền ở vùng này thì vấn đề giữ nước và chống giặc xâm lược cũng luôn là nội dung cơ bản.

Trước hết, đó là những câu chuyện kể về những con người thiết tha bảo vệ cuộc sống bình yên cho dân, cho nước. Họ là những tấm gương anh hùng được người đời luôn luôn ghi nhớ như: Chàng đoạt dao trong Truyện chàng Đoạt dao của ngài Bắc Đẩu, bà Khổng Ôn trong Truyện bà Khổng Ôn, ông Cào gò đống trong Truyện ông Cào gò đống... Bằng chính sức lực của mình, các nhân vật đã hoặc là chiến đấu với Thần Bắc Đẩu để giành tuổi thọ cho con người, hoặc là cứu loài người khỏi nạn đói, nạn lũ lụt. Họ mang tầm vóc và vai trò của những nhân vật thần thoại kỳ vĩ, lớn lao, đồng thời cũng rất gần gũi với con người.

Ngoài ra là rất nhiều câu chuyện mà nội dung, chủ đề chủ yếu tập trung vào vấn đề chống giặc xâm lược, một vấn đề xuyên suốt lịch sử đất nước ta. Đó là Truyện mái tóc biết khóc biết cười, Truyện may áo cho chồng bằng hơi thở ấm, Truyện cái khiên, Truyện chàng trai họ Đoàn, Truyện nàng vú Thúng, Truyện nàng trăm sắc, Truyện nàng nuôi con ở trong bụng ngọc, Truyện nàng hát hay làm quay muôn giáo... Các nhân vật trong truyện, dù là nam hay nữ, đều thể hiện tinh thần chống giặc ngoại xâm quật cường. Nàng Vú Thúng có sức vóc to lớn lạ thường đã rạch ngực mình cho vô số quân binh từ đó nhảy ra để diệt giặc. Nàng Trăm sắc với nhan sắc tuyệt vời đã khiến cho quân giặc chém giết lẫn nhau, còn xác nàng khi bị giặc chém nát thì lại biến thành đội quân hàng nghìn thiếu nữ cầm giáo xông lên giết giặc. Nàng hát hay dùng giọng hát của mình làm mê mệt quân giặc và làm rã rời ý chí của chúng. Nàng Áo the đã đứng lên cùng chị em kéo cờ nghĩa chống giặc, những chiếc áo the của họ đã hóa thành những cái túi thắt chặt để nhốt quân giặc... Còn các chàng trai như Chàng trai họ Đoàn có sức vóc lạ lùng, mình cao bẩy thước, vai rộng, tiếng nói vang như sấm thì đã đem sức mình ra để đánh tan giặc giữ thanh bình cho đất nước. Chàng trai trong truyện Hồ giải yếm lại gá nghĩa cùng cô gái mồ côi có sức mạnh thần kỳ nhờ yếm thần để cùng nhau đi đánh giặc. Chàng Cả Lạn trong Truyện cái khiên đã dùng khiên thần che cho quân sĩ tiến đánh quân giặc, chiến thắng được hàng trăm trận... Hình tượng các chàng trai và cô gái trên đây đã là những hình tượng đặc trưng của truyện cổ Hà Nam.

Chứa đựng những nội dung tư tưởng sâu sắc và lớn lao, những truyện dân gian Hà Nam đa phần có kết cấu truyện ngắn gọn, đơn giản, lời kết mộc mạc, dễ hiểu, dễ nhớ phản ánh rõ nét tính địa phương của những chuyện cổ. Các truyện thường sử dụng những cảnh vật quen thuộc của quê hương, với những sắc thái riêng của xứ Nam Hà lắm đồi núi, nhiều ruộng sâu trũng và nhiều sông ngòi... Truyện cổ đã ghi nhận lịch sử của người Hà Nam ngay từ buổi ban đầu lập nước và đã tiếp tục phản ánh sự tồn tại, phát triển và việc gìn giữ mảnh đất này trước những nạn xâm lăng, lũ lụt, bão tố và nghèo đói. Dấu ấn của những người nông dân lao động quen cày bừa, cấy hái và quen cả cầm gươm giáo để đánh giặc ngoại xâm, nêu cao tinh thần thượng võ và truyền thống yêu nước đã để lại đậm nét trong kho tàng truyện cổ của Hà Nam - cũng như toàn bộ nền văn học dân gian Hà Nam - một vốn quý tinh thần cần được giữ gìn và phát huy.

VĂN HỌC VIẾT

Nằm trong tiến trình phát triển chung của lịch sử văn học dân tộc, văn học viết Hà Nam cũng có thể chia thành hai thời kỳ lớn: thời kỳ văn học Hán - Nôm từ thế kỷ XI đến hết thế kỷ XIX và thời kỳ văn học Quốc ngữ (La-tinh) từ đầu thế kỷ XX đến nay.

Thời kì thứ nhất lại có thể chia thành các giai đoạn như:

1   - Văn học viết Hà Nam thời Lý - Trần (Thế kỷ XI - XIV).

2   - Văn học viết Hà Nam thời Lê - Mạc (Thế kỷ XV - XVIII).

3   - Văn học viết Hà Nam thế kỷ XIX.

Thời kì thứ hai cũng có thể chia thành:

1    - Văn học viết Hà Nam trước 1945.

2    - Văn học viết Hà Nam từ 1945 đến nay.

Văn học viết Hà Nam là văn học do người Hà Nam viết và cũng có thể tính đến cả một số lượng văn thơ nhất định viết về Hà Nam.

Mảnh đất Hà Nam nằm gần kề các trung tâm văn hóa, văn học lớn: nằm giữa Sơn Nam xưa, nằm trong Hà Nội một quãng khá dài, rồi lại sáp nhập với thành phố Nam Định, thị xã Ninh Bình, vậy văn học viết Hà Nam đã hiện diện với tư cách là một vùng văn học, căn cứ vào những tiêu chí sau: có một lực lượng sáng tác khá đông đảo, có một số lượng tác phẩm khá phong phú và nhất  là có những sắc thái riêng biệt không giống với bất kỳ một vùng văn học nào khác.

Tác giả văn học viết Hà Nam đầu tiên là nhà sư Đàm Cứu Chỉ, khi ông đến trụ trì chùa Diên Linh trên núi Long Đọi (huyện Duy Tiên) vào quãng niên hiệu Long Thụy Thái Bình nhà Lý (1054 - 1058) và còn để lại bài thơ Tâm Pháp (Tâm và Pháp). Tính từ đấy cho đến nay, văn học viết Hà Nam có cả 1.000 năm, một chiều dài lịch sử đáng kinh ngạc và cũng đáng tự hào. Dưới đây là phác thảo lịch trình của văn học viết Hà Nam trong mạch chảy thời gian lâu dài đó.

A - VĂN HỌC VIẾT HÀ NAM TỪ THẾ KỶ XI ĐếN HẾT THế KỶ XIX

I.   VĂN HỌC VIẾT HÀ NAM THỜI LÝ - TRầN (THế KỶ XI - XIV)

Giai đoạn từ thế kỷ XI đến hết thế kỷ XIV là giai đoạn lịch sử của hai triều đại: nhà Lý (1010 - 1225) và nhà Trần (1226 - 1400). Một trong những đặc điểm lớn của thời Lý - Trần là hiện tượng “tam giáo đồng nguyên”, trong đó cả 3 hệ phái tư tưởng Phật - Đạo - Nho đều được xem trọng, đặc biệt Phật giáo thời này được coi như Quốc giáo. Điều ấy có lý do lịch sử. Phật giáo đóng vai trò rất quan trọng trong việc lập quốc của nhà Lý, nhiều vị sư được phong làm Quốc sư bên cạnh triều đình. Phật giáo cũng có vai trò rất quan trọng trong việc “hòa quang đồng trần”, cố kết nhân tâm giúp quân dân nhà Trần 3 lần chiến thắng giặc xâm lược Nguyên - Mông. Sau khi nhường ngôi, các vua Trần thường tu Phật và bản thân mấy vị như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông đã lập nên Thiền phái Trúc lâm Việt Nam nổi tiếng. Do vậy, việc Phật giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến thời kỳ này là điều hiển nhiên. Nhiều người đã nói đến một dòng “Văn học Phật giáo”, một dòng “Thơ Thiền” của thời đại Lý - Trần.

Nhưng thơ văn thời Lý - Trần, sau chính sách hủy diệt văn hóa Đại Việt của nhà Minh, còn sót lại khá ít ỏi. Văn học viết Hà Nam thời kỳ này cũng còn lại rất ít và cũng đều liên quan rất mật thiết tới Phật giáo.

Như đã nói, Đàm Cứu Chỉ (995 - 1067) là tác giả văn học viết Hà Nam đầu tiên. Ông sinh năm Ất Mùi, niên hiệu Ứng Thiên thứ 2 (995) triều Lê Đại Hành, mất năm Đinh Mùi, niên hiệu Thiên Huống Bảo Tượng thứ 2 (1067) triều Lý Thánh Tông. Thuở nhỏ rất hiếu học, nghiên tầm kỹ cả Khổng - Mặc, Lão - Trang và Phật, nhưng chuyên về giáo lý Phật. Cứu Chỉ là pháp danh tu Phật theo Thiền phái thế hệ thứ 7 dòng Quan Bích, là học trò của Thiền sư Định Hương ở chùa Cảm ứng núi Ba Sơn. Cứu Chỉ vốn quê ở làng Phú Đàm, hương Chu Minh (Bắc Ninh), tu ở chùa Quang Minh núi Tiên Du. Ông sống trải 2 đời vua đầu triều nhà Lý. Trong đó, ông được vua Lý Thái Tông (1028 - 1054) vời đến 3 lần cũng không chịu xuống núi, đến thời Lý Thánh Tông (1054 - 1072), bản thân nhà vua cũng từng nhiều lần thân hành đến thăm ông và bản tự. Khoảng niên hiệu Long Thụy Thái Bình (1054 - 1058), Cứu Chỉ về trụ trì chùa Diên Linh, núi Long Đọi, ngôi chùa do Tể tướng Dương Đạo Gia xây dựng. Ông là tác giả bài thơ Tâm Pháp. Trước bài thơ có một lời dẫn khá dài nói về tâm và pháp, trong đó có đoạn: “Hết thảy mọi pháp môn bắt nguồn từ tính người, hết thảy mọi pháp tính bắt nguồn từ tâm người. Tâm pháp là một, đâu phải là hai. Tội phúc thị phi, tất cả đều ảo; trói buộc phiền não, tất cả đều không. Chẳng cái gì không phải nhân, chẳng cái gì không phải quả. Chớ nên phân biệt nghiệp với báo, chớ nên phân biệt báo với nghiệp. Nếu phân biệt nghiệp, ắt không tự tại. Dù thấy hết mọi pháp cũng là không thấy, dù biết hết mọi pháp cũng là không hay...”. Bài thơ như sau:

Phiên âm:

Giác liễu thân tâm bản ngưng tịch,

Thần thông biến hóa hiện chư tướng.

Hữu vi vô vi tòng thử xuất,

Hà sa thế giới bất khả lượng.

Tuy nhiên biến mãn hư không giới,

Nhất nhất quan lại một hình trạng.

Thiên cổ vạn cổ nan tỉ huống,

Giới giới xứ xứ thường lãng lãng.

Dịch nghĩa:

Hiểu thấu thân tâm vốn lặng lẽ,

Biến hóa thần thông thành mọi hiện tượng.

Hữu vi pháp hay vô vi pháp đều từ đó mà ra,

Thế giới nhiều như cát sông Hằng, chẳng thể đếm hết.

Tuy rằng đầy khắp cõi hư không,

Nhưng xem ra, hết thảy đều không có hình trạng.

Dù muôn đời nghìn thuở cũng không thể so sánh (với nó được), (Thế mà) chốn chốn nơi nơi nó thường sáng tỏ.

Dịch thơ:

Hiểu thấu thân tâm vốn lặng trong,

Thần thông biến hóa hiện vô cùng.

Dù vô dù hữu từ đây cả,

Thế giới hà sa đếm khó xong.

Khắp cõi thái hư đều chật ắp,

Xem ra hình trạng thảy đều không.

Muôn đời vạn kiếp bù sao được,

Chốn chốn nơi nơi sáng lạ lùng.

(Băng Thanh dịch)

Bản dịch theo luật Đường, bát cú, thất ngôn. Nhưng nguyên tác bài thơ lại có một hình thức khá lạ. Cũng là bảy chữ, tám câu nhưng niêm luật thoải mái, không gò bó. Câu nào vần chân cũng là thanh trắc và có đến hai lần chuyển vần, bốn câu đầu một vần, bốn câu sau lại vần khác. Hình thức ấy dễ liên tưởng đến sự khai phóng, vô chấp và một tinh thần tự tại đầy bản lĩnh của Phật giáo Lý - Trần: “Nam nhi tự hữu xung thiên chí; Hưu hướng Như Lai hành xứ hành” (Làm trai lập chí xông trời thẳm; Theo gót Như Lai luống nhọc mình). Sự khác lạ của hình thức bài thơ là để chuyển tải, truyền đạt một chân lý, một lời khẳng định. Lời dẫn thơ thì nói tâm, nói pháp, lại nói pháp cũng là do tâm, và nội dung thơ thì nhấn mạnh đến cái “bản ngưng tịch” (cái gốc lặng lẽ) của tâm. Đấy là những vấn đề hết sức cơ bản của giáo lý nhà Phật.

Cứu Chỉ là một thiền sư danh tiếng, được mấy đời vua Lý trọng vọng. Chùa Diên Linh lại do một vị Tể tướng trực tiếp xây dựng. Ngôi chùa trên núi Long Đọi bấy giờ đã trở thành một trong mấy trung tâm Phật giáo - chính trị lớn. Sau Cứu Chỉ, đích thân vua Lý Nhân Tông lại tiếp tục cho xây tháp Sùng Thiện và một số kiến trúc khác ở Diên Linh và sai Thượng thư Nguyễn Công Bật soạn văn bia: Đại Việt quốc Lý gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (Bia tháp Sùng Thiện Diên Linh của vua thứ tư nhà Lý), rồi vua tự tay ngự bút lối chữ “phi bạch” trên trán bia. Đó cũng là tác phẩm văn học viết thứ hai của Hà Nam, thật nhân duyên và kỳ lạ, tác phẩm này cũng gắn với Phật giáo, cũng tại non thiêng Long Đội.

Nguyễn Công Bật - tác giả bài văn bia, hiện chưa rõ quê quán, năm sinh, năm mất; chỉ biết ông là một vị quan đảm trách Thượng thư bộ Hình đời vua Lý Nhân Tông (1072 - 1128) và bài văn bia có niên đại ra đời là 1121 - 1122. Trong Kiến văn tiểu lục Nguyễn Công Bật được Lê Quý Đôn ghi là Mai Công Bật, không hiểu sao lại có sự đổi họ như vậy.

Về kết cấu, bài văn bia có thể chia thành 5 đoạn:

1     - Giới thuyết về lẽ huyển vi của tạo hóa, về sự xuất   hiện Phật đạo, lai lịch và hình tích Phật Tổ.

2     - Trực tiếp nói về vua đương triều Lý Nhân Tông từ khi đầu thai tới lúc trưởng thành, tài năng đức độ, thể chế công tích... của nhà vua.

3     - Những triệu tốt, điềm lành của nhà Lý.

4     - Duyên do xây dựng, kiến trúc tháp Sùng Thiện.

5     - Bài minh văn.

Mặt sau của tấm bia còn chép việc Thái hậu Linh Nhân (mẹ vua Lý Nhân Tông) cúng 72 mẫu ruộng làm hương hỏa cho chùa Diên Linh; rồi bài thơ Lê Thánh Tông đề năm Quang Thuận thứ 8 (1467) và một đoạn văn nói việc tu sửa chùa đời Mạc, năm Hưng Trị thứ 4 (1591). Như thế, tấm bia là “thạch bản” thơ văn của gần 5 thế kỷ. Bài thơ của Lê Thánh Tông viết:

“Dư bái yết sơn lăng, lộ kinh sơn tả, toại đăng lãm yên. Tiếu Lý triều sự đản chi quân thần, ta quốc bộ tằng kinh ư binh tiễn. Lưu nhất luật vu thạch âm vân:

Thiên nhận tằng loan cổ Hóa thành,

Phan duyên thạch dắng khấu thiền quynh.

Lý hoàng quái đản bi không tại,

Minh tặc hung tàn tự dĩ canh.

Lộ thiểu nhân tung dài giáp lục,

Sơn đa xuân vũ thiếu ngân thanh.

Đăng cao nhãn giới vô cùng trứ,

Vạn lý màng mang thảo thụ binh.

(Ta đi bái yết sơn lăng, đường qua bên tả núi này, bèn lên chơi chùa. Cười vua tôi triều Lý tôn sùng điều quái đản; thương đất nước trải nhiều phen binh lửa. Nên có đề một bài thơ dưới đây:

Non ngất nghìn tầm thành Hóa cũ,

Men vin bậc đá viếng Thiền gia.

Hoang đường vua Lý bia còn đó,

Tàn bạo quân Minh tháp khác xưa.

Đường biếc rêu phong, người vắng dấu,

Núi xanh vệt cháy, tiết nhiều mưa.

Lên cao tầm mắt nhìn bao quát,

Muôn dặm cây xanh một giải mờ).

(Đỗ Văn Hỷ dịch)

Ngoài câu thứ 4 nói rõ sự tàn phá của giặc Minh, còn lời đề từ và câu thứ 3 phải chăng có ý phê nhà Lý ưa những chuyện “hoang đường”, bài văn bia có nội dung chính là ca ngợi thánh chúa, hoằng dương Phật giáo, sùng tôn việc thiện và được viết với một lối văn biền ngẫu, hoa lệ, chặt chẽ. Cùng với vài ba bài văn bia khác thời Lý, đây là bài văn có tính cách mở lối, làm mẫu mực cho thể loại về sau.

Văn bia Sùng Thiện Diên Linh đương nhiên là tài sản quốc gia, nhưng trước hết là báu vật của Hà Nam - một tác phẩm văn học viết xuất sắc, một giá trị văn hóa vô giá.

Đến thời Trần, văn học viết về Hà Nam có hai tác phẩm, đều liên quan đến chùa Quế Lâm (huyện Kim Bảng). Trần Nhân Tông viết Quế Lâm vãn cảnh (Cảnh chiều Quế Lâm):

Cổ tự đài phong thu ái ngoại,

Ngư thuyền Hát thủy mộ chung sơ.

Thiên thanh sơn bích phi âu quá.

Phong định vân nhàn dung thụ sơ.

(Chùa cổ rêu phong dưới bóng thu,

Chuông chiều sông Hát chiếc thuyền ngư.

Trời xanh núi biếc chim âu lượn,

Gió lặng mây dừng lá đã thưa).

Trương Hán Siêu có bài Đề Quế Lâm tự (Đề thơ chùa Quế Lâm):

Hồng kiều khóa thủy đoạn nhân huyên,

Vạn khoảnh giang ba giáp tự môn.

Thụ lý điểu thanh quan giác tĩnh,

Vũ sư trúc ảnh địa vô ngân.

Hương hoa điện thượng kim dung xán,

Đăng chúc đường trung pháp tọa tôn.

Tự hận nhi tôn tham bão noãn,

Bất tùy tiên tổ báo quân ân.

(Cầu vồng sắc đỏ vút lên từ nước, xa hẳn sự huyên náo,

Sóng sông vạn khoảnh lan tận cửa chùa.

Tiếng chim trong cây, cảnh thiền lặng lẽ,

Bóng trúc mưa rây, đất chưa ngấn nước.

Trên điện bày hương hoa, tượng vàng rực rỡ,

Trong nhà đèn nến, tòa pháp tôn nghiêm.

Chỉ giận con cháu mải mê danh lợi,

Chẳng theo tiên tổ báo đáp ơn vua).

Cũng là đề tài liên quan đến Phật giáo, nhưng mấy bài thơ thời Trần đã không chỉ còn nói chuyện giáo lý. Trong thơ đã thấy cảnh vật từ trời, nước, sông, núi đến cây cỏ, chim chóc... được mô tả khá hay và khá sinh động.

Tóm lại, văn học viết Hà Nam từ thế kỷ XI đến XIV chỉ còn lại một số tác phẩm, viết bằng chữ Hán; thuộc thể loại thơ và thuộc thể loại bi văn; nhưng đều là những tác phẩm đặc sắc, có giá trị; trong đó bài văn bia bên cạnh ý nghĩa văn học còn mang ý nghĩa như một tượng đài văn hóa, lịch sử bất hủ.

II.    VĂN HỌC VIẾT HÀ NAM THỜI LÊ - MẠC (THế KỶ XV-XVIII)

Lê - Mạc là để gọi chung cho quãng lịch sử 4 thế kỷ, từ XV đến XVIII (Thực ra còn có gần một chục năm triều Hồ đầu thế kỷ XV và hơn một chục năm triều Tây Sơn cuối thế kỷ XVIII). Văn học viết Hà Nam giai đoạn này xuất hiện nhiều tác giả, tác phẩm. Các tác giả phần lớn là những người đỗ đạt, là vua quan dưới các triều Lê-Mạc và sáng tác của họ về cơ bản xoay quanh mấy cảm hứng chính: Cảm hứng lịch sử, Cảm hứng thế sự và Cảm hứng nhân văn.

1. Cảm hứng lịch sử

Trước hết, là các sáng tác vịnh sử, vịnh các nhân vật lịch sử.  Bài Trưng Vương Đại tướng từ (Đền thờ vị Đại tướng của Trưng Vương) của Trần Bảo  viết về tướng Cần Thiện theo Bà Trưng đánh giặc:

Sinh tại giang tân trạch lệ lâm,

Kế tiền tích thiện thế nhân khâm.

Vũ do phụ giáo thông thao lược,

Văn đắc gia truyền đạt cổ kim.

Thệ phụ Nữ Vương trừ bạo ngược,

Vị lân dân ấp lãnh hung tâm.

(Sinh ra ở ngôi nhà bên bến sông cạnh rừng vải,

Noi theo thiện đức tiên tổ, người đời hâm mộ.

Võ do cha dạy, tinh thông thao lược,

Văn là nghiệp gia truyền, thấu cả cổ kim.

Thề giúp Trưng Vương, trừ hết bạo ngược,

Thương xót dân làng, xóa bỏ đói nghèo...).

Phạm Viết Tuấn và Lý Trần Thản lại cùng viết về một nhân vật nổi danh thời Lý: Lý Thường Kiệt. Bài của Phạm Viết Tuấn: Tự Thiên Kiện hồi quá Lý Thường Kiệt miếu (Từ Thiên Kiện về qua miếu thờ Lý Thường Kiệt) có đoạn:

Anh hùng tích nhật duy tồn phả,

Nhân nghĩa đương thì tịch thảo khư.

Bắc quốc mỗi văn thần sự nghiệp,

Lôi oanh đầu thượng cảm khoa dư?

(Anh hùng thuở trước, nay còn trong phả,

Nhân nghĩa thời ấy là việc khai khẩn mở ấp.

Bọn phương Bắc mỗi khi nghe sự nghiệp của ngài,

Tưởng như sét đánh trên đầu, còn dám ngo ngoe chăng?)

Còn bài thơ của Lý Trần Thản: Lý Thường Kiệt cũng viết:

Sinh vi lương tướng, hóa vi thần,

Lý đại do tồn thạch ký ngân.

Phạt Tống bình Chiêm công dữ quốc,

Khai điền tế khổn đức ư dân.

Trúc sơn thử nhật ca thanh trứ,

Hương ấp đương thì lão thiếu hân...

(Sống là tướng giỏi, hóa đi thành thần,

Từ thời Lý còn chép rõ trên bia đá.

Đánh quân Tống, dẹp Chiêm Thành, có công với nước,

Vỡ đất, tế bần, để đức trong dân.

Núi Trúc ngày ấy vang dậy lời ca,

Bấy giờ già trẻ trong làng đều hân hoan...)

Cũng viết về một nhân vật thời Lý, bài Từ công (Ông Từ Đạo Hạnh) của Tạ Đình Duy lại có một giọng điệu khác:

Quy Phật thùy vong thế tục lan,

Từ công bộ quá nữ thân nan.

Thăng trầm dĩ thức trần gian tạm,

Vĩnh cửu thường tri lạc cảnh an.

Ký dữ Nam thiên gia nhị phái,

Hựu lưu Việt địa đế cư hoan...

(Theo Phật đã ai quên được cõi thế tục,

Ông Từ đã lỡ bước qua thân gái.

Thăng trầm, dẫu biết trần gian chỉ là tạm bợ,

Vĩnh hằng, luôn nhớ đấy là cõi an lạc.

Đã gửi lại hai chi ở dưới trời Nam,

Còn lưu một đời vua sung sướng ở đất Việt...)

Có hai nhân vật đời Trần được nhắc đến là Phạm Ngũ Lão và Trần Nhật Duật. Nguyễn Tông Lan viết Phạm Ngũ Lão ngoại quán (Quê ngoại Phạm Ngũ Lão), Dương Bang Bản (Lê Tung) viết Chiêu Văn Vương Nhật Duật (Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật).

Nguyễn Mạo còn viết về một danh sĩ ngay trên đất Hà Nam là Trình Thuấn Du qua bài thơ Trình công cựu trạch từ (Ngôi đền ở nhà cũ của ông Trình).

Trình Thuấn Du (sự tích xem mục Các nhà khoa bảng Hà Nam, phần Giáo dục) mất năm 1481, còn Nguyễn Mạo sinh năm 1480. Trình Thuấn Du người Đội Sơn (huyện Duy Tiên) còn Nguyễn Mạo người Bất Đoạt (huyện Kim Bảng). Đó là niềm tự hào về một danh nhân của chính quê hương Sơn Nam của mình chăng? Bài thơ viết:

Lê Tổ sơ niên hữu lệnh danh,

Vi quan Hành khiển vị phi khinh.

Trung cần dữ đế triều suy trọng,

Thành tín đồng dân quốc sự thanh.

Kỳ biển vinh quy tồn miếu nội,

Ngôn hành huân nghiệp trí bi minh...

(Năm đầu Lê Thái Tổ đã nổi danh đỗ đạt,

Làm quan đến Hành khiển, chức vị không nhỏ.

Trung thành, siêng năng với vua, triều đình trọng vọng,

Thực thà, giữ tín với dân, việc nước đều sáng tỏ.

Cờ biển lúc vinh quy còn lưu trong miếu,

Lời nói, việc làm, công nghiệp còn chép ở bài minh văn trên bia đá...)

Còn có mảng thơ viết về những nhân vật lịch sử xem ra có vẻ bình thường hơn những tên tuổi vừa kể, những ông Nguyễn, bà Hướng...; chính tích của họ chỉ là việc quyên góp, công đức tài sản hay việc khai khẩn, lập làng... nhưng tên tuổi của họ vẫn được ghi nhận, thậm chí còn được đánh giá, bình xét. Ở bài ông Sơn tự (Chùa Ông Sơn), tác giả Phạm Viết Tuấn viết về một người tên là Nguyễn Duy Châu - người từng có tấm lòng: “Hữu tiền duy vọng tế bần lư”

(Lúc có tiền bạc chỉ mong cứu giúp được kẻ khó) - sau  được dân thờ ở chùa Ông Sơn, rằng:

Cố lai nan mịch hà nhân tự,

Vương bá giai vong tại thảo khư.

(Xưa nay khó tìm được người như thế,

Có là vương bá thì cũng đều bị lãng quên dưới đám cỏ xanh).

Đó là một lời bàn luận sâu sắc dưới hình thức thơ.

Bên cạnh nhân vật lịch sử là các địa danh lịch sử, một đề tài cũng bắt gặp nhiều ở văn học viết Hà Nam thời này.

Trình Thuấn Du có bài Hồi cựu quán (Trở về quê cũ), nhớ về danh lam Long Đọi:

Tam thập dư niên biệt cố hương,

Long Sơn cổ sái tịnh tiên đường...

Tiền Lý tạo thành bi thượng tại,

Hậu Trần cải kiến phả tư chương...

(Hơn ba mươi năm từ biệt cố hương,

Nơi có chùa cổ núi Long Đọi và nhà thờ tiên tổ...

Chùa dựng từ thời Lý còn văn bia ghi chép,

Thời Trần có tu sửa, thấy rõ trong bản phả...)

Phan Tế có bài Dạ túc Bà Đanh tự (Đêm trú ở chùa Bà Đanh) viết về một ngồi chùa nổi tiếng của Hà Nam - chùa Bà Đanh:

Đông nguyệt lương phong nhược thiết châm,

Thuyền trung nan ngọa tại giang tân.

Ngưỡng quan thụ lý sơn biên tự,

Mộ lạc chung thanh thủy bạn trầm.

Dương Liễu bà Đanh cư lập ấp,

Tùng lâm ông Nguyễn chí tu chân...

(Tháng đông gió lạnh buốt như kim châm,

Bên bến sông, khó có thể nằm trên thuyền.

Trông lên trong vòm lá có ngôi chùa bên núi,

Chiều xuống, tiếng chuông chìm lắng mé nước.

 

Bà họ Đinh ở Dương Liễu đến đây lập ấp,

Tôn ông họ Nguyễn là bậc chân tu trong chùa...)

Đường thi xưa có câu “Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền” (Nửa đêm tiếng chuông chùa đến bên thuyền khách). Có thể nói câu thơ “Mộ lạc chung thanh thủy bạn trầm” ở đây còn có phần thi vị hơn, tiếng chuông không chỉ đến bên mà còn như chìm lắng, nhập nhòa, hòa cùng sông nước.

Vượt khỏi địa giới Hà Nam, Trương Minh Lượng có bài Hoa Lư cố kinh hữu cảm (Cảm tác qua kinh đô cũ Hoa Lư):

Hoa Lư sơ định đế vương đô,

Trúc kế chư sơn tạc ngũ hồ.

Chấp lý chu hoàn thành diệc tiểu,

Nhị vương yểu tử nghiệp nam đồ.

Thiết lâm cung thất kim trầm thổ,

Thạch thế môn tường cổ diệc phô.

Thác lạc chư thôn tồn hoại mộc,

Dụng liên thông lộ bạn lô cù.

(Hoa Lư là nơi mới đầu định đặt kinh đô mở nghiệp đế vương,

Đắp nối các núi, đào thành năm hồ.

Chu vi mấy chục dặm, kinh thành vẫn còn nhỏ,

Hai vua đều chết yểu, cơ nghiệp khó xong.

Nhà cửa, cung điện nay vùi trong đất,

Tường bao, thềm đá vẻ cũ còn phô.

Mấy xóm quanh thành còn (lấy) gỗ lạt chưa mục hẳn,

Dùng làm cầu bắc để tiện đi lại trên đường lau lách).

Bài thơ mang khí vị hoài cổ thật đậm. Âm hưởng buồn bã, cám cảnh, ngậm ngùi. Tiếc nuối cho một cố đô, một thời vàng son, một giá trị lịch sử, văn hóa đã và đang bị hủy hoại.

Không chỉ sáng tác về nhân vật và về địa danh lịch sử, các tác giả văn học Hà Nam còn viết về sự kiện lịch sử và các phong tục văn hóa, lịch sử.

Vũ Hoán viết Lũng Nhai minh hội (Hội thề Lũng Nhai) cũng là để hồi cố về một quá khứ tốt đẹp, hào hùng của nghĩa quân Lam Sơn:

Bính Thân nhị nguyệt Lũng Nhai minh,

Thệ phá Ngô xâm triệu dĩ thành.

Phóng nhãn khả quan nhân quỵ đảo,

Túc biên do nhận nghĩa kỳ linh.

Phong trung ngưỡng vọng anh hùng chí,

Thụ hạ nan tầm áng trại nghênh.

My động như kim hà chí thử,

Mỗi văn cố sự bất thăng tình.

(Tháng hai năm Bính Thân (1416), có hội thề Lũng Nhai,

Thề quyết đánh quân Minh, điềm tốt đã thành.

Phóng tầm mắt, như còn thấy dáng người quỳ lễ,

Ngay bên chân, còn nhận rõ bóng cờ nghĩa thiêng liêng.

Thoảng trong gió vẫn ngưỡng vọng chí khí anh hùng,

Dưới hàng cây khó thấy sự nghênh đón của dân trại

Như áng.

Động My, nay có ai đến đấy,

Mỗi khi nghe lại việc xưa, khôn xiết bùi ngùi).

Vũ Hoán (1524-1607) sống trọn qua cả thời chiến tranh Lê-Mạc, chắc hẳn tác giả có gửi gắm trong bài thơ một ý tưởng, khi nhớ về sự kiện lịch sử đã mở màn cho cuộc chiến đấu chống xâm lược oai hùng.

Về phong tục văn hóa, lịch sử, Trương Minh Lượng có bài Trần gia ngư tế từ (Đền tế cá của nhà Trần):

Sơ do ngư nghiệp tác sinh nhai,

Hải tế hà vô bất khứ lai.

Tàm thực thiết mưu thiên Lý tộ,

Triệu cơ dĩ đức chuyển nhân hoài.

Thủy cư Dương Xá tồn gia ấp,

Ngư tế sinh tiên kính tổ đài...

(Lúc đầu lấy chài lưới làm kế sinh nhai,

Khắp vùng duyên hải không nơi nào không đến.

Dùng mẹo tằm ăn để đổi cơ nghiệp nhà Lý,

Xây nền móng thì lấy đức để lay động nhân tâm.

Trước ở Dương Xá, nay còn gia ấp,

Có lệ tế cá sống kính cẩn trước nơi thờ liệt tổ...)

Bài thơ còn có nguyên chú: lễ ông Kinh dùng cá quả, lễ ông Hấp dùng cá trắm, lễ ông Lý dùng cá chép, lễ ông Thừa dùng cá sưa, lễ Tự Khánh  dùng cá ngạnh, lễ Trần Thị Dung dùng cá ngừ, lễ Trần Liễu dùng cá nheo, lễ Trần Cảnh dùng cá lành canh... Đây là tác phẩm thơ độc đáo, bổ sung hữu ích cho việc tìm hiểu lịch sử nhà Trần và lịch sử phong tục nói chung.

Nguyễn Sư Hựu lại nói về một lệ tục khác: tục cướp lão qua bài Tranh nghinh kỳ lão (Cướp lão), một nét thuần phong đẹp, hồn phác ở vùng Liêm Túc (huyện Thanh Liêm):

Lê minh trúc kiệu dĩ lâm đình,

Thiếu tráng giai tuân bị lực nghinh.

Tứ giáp hương dân tam giáp hữu,

Nhất nhân kỳ lão bách nhân vinh.

Lễ thành gia nội tương hồi nhật,

Kỳ trượng đồ gian tập bão chinh.

Nhược thắng lý trung ban nhị quán,

Bại thời trí tạ hắc trư sinh.

(Mờ sáng kiệu trúc đã dóng sẵn ở sân đình,

Bọn trai tráng khỏe mạnh chuẩn bị sẵn sàng để cướp đón.

Dân làng 4 giáp, thì 3 giáp làm lệ cướp,

Một nhà có lão (80 tuổi) thì trăm người mừng vui.

Xong lễ, kỳ lão lên đường trở về nhà,

Các giáp kia phục sẵn cờ quạt, trượng gậy cướp rước lão vào kiệu mình mà chạy.

Ai thắng được làng cho 2 quan tiền thưởng,

Thua thì phải đem tạ một chú lợn đen).

Chung quy lại, dẫu viết về phong tục hay địa danh, sự kiện hay nhân vật lịch sử thì đó cũng là biểu thị tình cảm tự hào, yêu mến quê hương, đất nước và dân tộc. Thế nên, văn học viết Hà Nam cũng có những vần thơ đanh thép chống xâm lược, chống kẻ ngoại bang. Câu thơ của Lê Thánh Tông “Minh tặc hung tàn tự dĩ canh” (Tàn bạo quân Minh tháp khác xưa) dẫn ở trên đã vạch mặt giặc Minh hủy diệt văn hóa, lịch sử nước ta. Nhưng Lê Thánh Tông nói về Long Đọi, là tiếng nói ở vị thế của người có tầm bao quát chung. Tác giả Bùi Viết Lượng người Hà Nam cũng đả phá thiên triều mãnh liệt. Ông đỗ Tiến sĩ năm 1466, được cử sang sứ nhà Minh. Qua cửa ai, ông có làm bài Ngưỡng Đức đài (Đài Ngưỡng Đức). Phong kiến Trung Quốc xây đài này và đặt tên như thế, tỏ ý rằng người phương Nam khi sang đó phải ngưỡng đội ơn đức của vua họ. Nhưng sứ giả Đại Việt Bùi Viết Lượng khẳng khái viết:

Phân mao hà hữu Bắc, Nam đồng,

Lộ thượng quan quang cố miện trung.

Thủy đạo thiên triều minh đức viễn,

Nan vong kỷ độ hắc tâm công...

(Cỏ rẽ ra hai ngả Nam, Bắc đâu có giống nhau,

Trên đường đi ngoảnh lại xem rõ rệt.

Ai bảo đức sáng của thiên triều thấm đến nơi xa,

Khó quên được mấy lần có dã tâm đánh chiếm...)

Có ý mỉa mai cái gọi là Ngưỡng Đức, tác giả bài thơ đã trực tiếp phê phán thiên triều. Đây là một bài thơ hiếm hoi có giọng điệu, nội dung như thế trong dòng thơ đi sứ.

2.    Cảm hứng thế sự

Tự hào, trân trọng quá khứ lịch sử, nhưng các tác giả văn học viết Hà Nam cũng không quên “những điều trông thấy” xảy ra đương thời.

Người cầm bút bao giờ cũng nghĩ đến dân lành. Dân khổ vì gì? Đã có câu ca: “Con ơi nhớ lấy câu này: Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”. Hoàng Mông qua bài Tế Xuyên thủy tổ từ (Đền thờ thủy tổ đất Tế Xuyên) đã nói đến cả “cướp đêm” lẫn “cướp ngày”:

Sơ thành ấp lý quan sai đáo,

Thủy kiến gia cư đạo tặc hồi.

(Vừa dựng làng, quan nha đã đến hạch sách,

Mới đắp nhà, trộm cướp cũng lại rình mò).

Dân còn khổ vì vua quan xa xỉ quá độ, Trần Tông Lỗ viết Cửu trùng đài (Đài chín tầng):

Thăng Long vạn thế đế vương đô,

Bách thốc lâu đài nhất xứ cô.

Nội hữu hoàng thành kim ỷ xán,

 

Ngoại vi phòng lũy thiết qua phô.

Cửu trùng cao các thần cư mỹ,

Thiên tử bần dân trí cốt khô.

Bảo quốc tòng lai phi dụng thử,

Thăng Long vạn thế đế xương đô.

(Thăng Long vạn đời là kinh đô bậc đế vương,

Lâu đài trăm nóc nhô cao hẳn một vùng.

Trong có hoàng thành, ngai vàng rực rỡ,

Ngoài có thành lũy, giáo mác phô oai.

Toà gác cao chín tầng, nơi vua ở thật mỹ lệ,

Dân cơ cực ngàn xác chết, để (mặc) xương khô.

Giữ nước từ xưa đâu có thế,

Thăng Long vạn đời là kinh đô bậc đế vương)

Dù vẫn biết cái đẹp và cái thiện rất nhiều khi không song hành, bài thơ vẫn thật đau đớn. Biện pháp đối ngẫu dùng rất đắt, nhất là ở hai câu 5 và 6. Lối thơ thủ vĩ ngâm (hai câu đầu và cuối giống nhau) khiến bài thơ như một bài “đồng dao” bằng Hán tự, châm biếm và chỉ trích vừa sâu cay, vừa xót xa.

Nếu như Trần Tông Lỗ biếm trích thế sự thì thơ của một số tác giả khác lại là lời than về thế sự. Nguyễn Diễn viết Thế lộ suy (Đường đời suy biến):

Vị tri thử nhật thị hà thời,

Thuỷ lạo cơ hàn kế loạn lai.

Binh hỏa Thanh dân phân lão thiếu,

Hoang lương Hải ấp mãn tân nhai.

Thăng Long tất hữu trầm long nhật,

Ngoại giáo đương phòng nội giáo quai.

Bất cố tổ tông tiên triệu bạch,

Căn cơ dĩ hoại khởi tồn tai.

(Không hiểu đời nay là cái đời gì,

Mà lụt lội, đói rét kế tiếp đến loạn lạc.

Dân vùng Thanh Hoa chịu binh lửa không kể trẻ già,

Làng xóm Hải Đông cảnh hoang tàn lan khắp bờ bến.

Rồng lên tất có ngày rồng chìm xuống,

Việc giáo phái từ ngày vào làm cho đạo nước nghiêng lệch.

Không đoái đến tổ tông, điềm báo trước đã rõ,

Nền nếp đã băng hoại thì sao có thể tồn tại được?)

Bài thơ không chỉ phản ánh nỗi khổ loạn ly, đói rét người dân phải gánh chịu mà còn nói đến cả chuyện rất thời sự như sự du nhập của đạo Thiên chúa vào Việt Nam. Chi tiết này ít thấy trong thơ văn đương thời.

Nguyễn Diễn mô tả sự khổ ải của dân Thanh Hoa thì Nguyễn Văn Tĩnh cũng viết bài Tam Điệp sơn (Núi Tam Điệp) - một vùng giáp giới xứ Thanh:

Thử phương thái chúc chí chung niên,

Nghiêu tích canh cư sổ mẫu điền.

Nhật xuất hãn y như thử vũ,

Dạ lai phúc lý cố không huyền.

Thuế sai quan sách liên liên nhật,

Chinh phạt ương sinh mãn mãn thiên.

Đế nghiệp nhược thành giang xích huyết,

Thâm lâm bất miễn hoạ tai triền.

(Địa phương này quanh năm chỉ có cháo rau,

Cày cấy chỉ có mấy mẫu ruộng cằn cỗi.

Mặt trời lên mồ hôi đổ đẫm áo như gặp mưa mùa hạ,

Đêm đến bụng thường khi rỗng không.

Quan sai thuế má hạch sách liên miên,

Cảnh chinh phạt tàn sát xảy ra khắp nơi.

Có thành được đế nghiệp thì cũng máu chảy thành sông,

Dẫu trốn vào rừng xanh cũng khó tránh được tai hoạ).

và cảnh tượng cũng chẳng khá hơn chút nào. Đến Lý Trần Thản, nhà thơ này còn viết về cả vùng Bắc Hà - lúc bấy giờ là “nước” của vua Lê - chúa Trịnh:

 

... Trịnh gia nhất tộc vô tương nhượng,

Loạn thế trường sinh triệu dĩ lai.

Nam phương binh hoả liên thiên sí,

Bắc quốc can qua biến hải nhai.

Bần phạp hựu kiêm đa dịch nhiễu,

Thương khung bất cố tiểu si ngai.

(Cùng họ như nhà Trịnh còn không chịu nhường nhau,

Đời loạn sinh ra mãi, triệu chứng lại đến.

Phương Nam binh lửa ngút tận trời xanh,

Cõi Bắc chiến tranh cũng lan tận nơi góc biển.

Kẻ nghèo hèn lại thêm sai dịch phiền nhiễu,

Trời xanh sao chẳng đoái đến dân đen).

Qua thơ, có thể thấy được thái độ của trí thức đương thời. Họ than thở cuộc thế biến loạn, lên án chiến tranh gieo rắc tai hoạ cho dân lành. Lời than toát lên tâm sự chán chường.

Bày tỏ thái độ trước thời cuộc, có tác giả là quan chức còn thể hiện ý muốn điền viên, ở ẩn. Nguyễn Như Lâm về ở Quang Ốc (nay thuộc xã Bắc Lý, huyện Lý Nhân) viết bài Tự vịnh:

Can qua dĩ định bất tu quan,

Phú quý tòng lai khởi hứa nhàn.

Điểu tận tất nhiên cung tự phế,

Oa cư tầm ẩn nghĩa vô nan.

Thần trà mộ tửu năng vi lạc,

Nhi đáo tôn lâm diệc túc hoan...

(Loạn lạc đã yên, chẳng nên làm quan nữa,

Xưa nay kẻ phú quý sao được nhàn?

Chim hết, tất nhiên cung tên phải bỏ,

Tìm nơi lều tranh thôn dã mà ẩn chắc không khó.

Sớm trà, tối rượu có thể tự an lạc,

Con đến, cháu thăm cũng đủ vui...)

Còn Bùi Viết Lượng viết thẳng về thân phận Vi quan (Làm quan):

Hạnh đắc cô thân ý tử bào,

Thập niên song hạ vạn gian lao.

Công hầu bất miễn nhân âm toán,

Trung trực nan đào hữu ác dao.

Phụ mẫu cơ hàn niên bất phụng,

Thê nhi bần phạp nhật thường sao.

Vi quan như thử hà vi giả?

Giả thụ quy điền nhất vọng cao.

(May ra được riêng mình mặc áo tía,

Phải trải qua cả chục năm bên song muôn phần gian lao.

Công hầu, chẳng trách được người ta ngầm hại,

Trung trực, cũng khó thoát bạn hữu ác tâm rêu rao.

Cha mẹ đói rét suốt năm không phụng dưỡng,

Vợ con nghèo thiếu lúc nào cũng kêu ca.

Làm quan như thế thì làm mà chi?

Rũ áo về vườn là hơn cả!)

Tâm trạng điền viên, quy ẩn, trốn tránh quan trường tuy mỗi người thể hiện một vẻ không giống nhau, nhưng rồi sẽ còn được tiếp tục, ở sáng tác thơ văn giai đoạn sau, hợp thành một phong cách khá rõ của văn học viết Hà Nam: phong cách điền viên ẩn dật.

3.     Cảm hứng nhân văn

Nói đến nhân văn là nói đến quan niệm về tình người, về nhân đạo. Bắt đầu bằng bài thơ Quá Dạ Trạch châu (Qua bãi Dạ Trạch) của Nguyễn Khắc Hiếu (1400-1472):

Tam giang tháp mạc dục lô biên,

Thức giả duy tồn thuỷ dữ thiên.

Như định nhất nam sa nội hiện,

Phi tiền tứ mục hợp trung tiền.

Đồng cư thuyền thượng thành phu phụ,

Bất đãi Vương gia hữu chiếu truyền.

Dĩ ái cường quyền nan trở trệ,

Hà nhân chí thủ bất ngôn tiên.

(Tại ngã ba sông buông màn tắm bên đám lau,

Biết chăng, chỉ có nước cùng trời.

Như định sẵn, một thân trai trong cát hiện ra,

Khác hẳn nếp cũ, bốn mắt nhìn nhau cháy bỏng.

Rồi cùng ở trên thuyền thành chồng vợ,

Chẳng đợi chiếu chỉ Hùng Vương cho phép.

Đã yêu rồi, dẫu cường quyền cũng khó ngăn trở,

Người nào đến đây chẳng nói đó là câu chuyện của người tiên).

Rõ ràng đây là chuyện Tiên Dung- Đổng Tử. Nhưng tác giả chỉ kể bằng 8 câu thơ và kể đoạn hay nhất, đoạn bén tình và nên duyên của đôi trai gái. Cũng khó lòng để nói bài thơ này chỉ đơn thuần là bản “tóm tắt” của câu chuyện. Tác giả ắt hẳn phải ngụ ý điều gì? Câu thứ 4 nói đến “tứ mục”, có lẽ là lần đầu tiên thơ ca Việt Nam nói về 4 mắt trai gái nhìn nhau say đắm, nóng bỏng một tình yêu tự nhiên, rất người. Bài thơ là một bản tình ca, ca ngợi tình yêu trai gái tự do, bước qua lễ giáo. Dẫu tác giả có cố tình “che chắn” bằng sự tiền định hay bằng chuyện của người tiên thì nội dung bài thơ vẫn toát lên, vẫn như khẳng định một điều khác hẳn.

Bài thơ của Nguyễn Khắc Hiếu nói về tình yêu, còn bài Thanh minh (Tiết thanh minh) của Nguyễn Như Lâm lại thể hiện lòng thương người:

Tích nhật hương nhân hà xứ khứ,

Ngã lai kiến thử diệc bồi hồi.

Mộ phần thác lạc điền gian bích,

Tông tộc tha phương ý vị khai.

Nhất chú tâm hương kỳ địa hạ,

Thiên hàng ai lệ sái tuyền quan...

(Người làng ngày xưa giờ bỏ đến nơi nào,

Ta đến trông thấy cảnh mà lòng dạ bùi ngùi.

Lác đác mộ phần cỏ xanh rì trên ruộng,

Họ hàng tha phương chưa ai tìm lại.

 

Một nén hương lòng cầu khấn cho người dưới đất,

 

Nước mắt ngàn hàng có thấm được đến chốn cửu tuyền...)

 

Bài thơ thật xúc động. Tác giả bày tỏ cái tình người không quen biết, lòng trắc ẩn với kẻ xa lạ mà thật sâu sắc. Điều đặc sắc ở đây là từ thế kỷ XV, một tác giả văn học viết Hà Nam đã giãi bày sự trân trọng đối với con người như vậy. Tác giả hy vọng rằng nước mắt và “hương Iòng” của mình phần nào an ủi được kẻ nằm dưới đất mà bị quên lãng trong tiết thanh minh kia.

 

Hai tác phẩm trên cho thấy một chủ nghĩa nhân đạo manh nha đã xuất hiện khá sớm trong thơ văn Hà Nam. Các tác giả đã nói rất hay về tình yêu trai gái tự do, về tình người. Còn nữa, thơ văn Hà Nam có cả một mảng sáng tác về đề tài người phụ nữ chịu đau khổ, oan khuất. Nhiều tác giả viết về Mị Ê, người thiếu phụ xứ lạ giữ trinh tiết với chồng đã tuẫn tử trên đất Hà Nam. Nhưng có một hình ảnh sâu đậm hơn, đó là người con gái Nam Xương (Vũ Thị Thiết). Câu chuyện về Vũ Nương đã được truyền tụng từ khá lâu, cho đến khi Lê Thánh Tông viết Điếu Vũ Nương:

Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương,

Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.

Ngọn đèn dẫu lận đừng nghe trẻ,

Cung nước chi cho lụy tới nàng.

Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,

Giải oan chăng lọ mấy đàn tràn.

Qua đây bàn bạc mà chơi vậy,

Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng thì nhân vật người thiếu phụ ấy đã chính thức bước chân từ truyện tích dân gian vào văn học viết. Hình thức bài thơ vẫn là luật Đường, nhưng ngôn ngữ đã là ngôn ngữ Nôm dân tộc. Tác giả nói “bàn bạc mà chơi”, có vẻ vô tình như một người qua đường. Thực tế, bài thơ bày tỏ lòng cảm thông sâu sắc và bản thân 56 chữ Nôm ấy đã là lời giải oan xác đáng. Hãy để ý đến hai câu 5 và 6. Hai câu này có nhịp ngắt 3/4: “Chứng quả đã / đôi vầng nhật nguyệt; Giải oan chăng / lọ mấy đàn tràng”. Câu trên mạnh mẽ, minh định; câu dưới như có gì đó nghi ngại, có phải tác giả muốn nói rằng đàn tràng giải oan thì còn có ích gì nữa, trên thực tế người ta đã thác oan rồi.

Sang thế kỷ XVI, Nguyễn Dữ viết Truyền kỳ mạn lục và hình ảnh Vũ Nương lại tái hiện ở Truyện người con gái Nam Xương. Đến đây, câu chuyện đã được “thành văn” xong và trọn vẹn. Người con gái Nam Xương trở thành điển hình văn học - điển hình cho những kiếp người oan. Chi tiết truyện hay cái “gút” truyện là “cái bóng người cha” trên vách mỗi khi đêm về cũng trở thành chi tiết truyện, “gút” truyện đặc sắc của lịch sử văn xuôi Việt Nam. Cảm hứng nhân văn đã được đẩy lên thành chủ nghĩa nhân đạo cao cả khi văn học viết lấy nhân vật người phụ nữ oan khuất làm nhân vật trung tâm.

 

Nhìn chung, văn học viết Hà Nam giai đoạn từ thế kỷ XV đến XVIII có lực lượng sáng tác khá đông đảo; chủ đề khá đa dạng; cảm hứng sáng tác khá phong phú, hoà nhập và có lúc là đỉnh cao của văn học viết nói chung đương thời. Về thể loại, bên cạnh thơ luật có truyện văn xuôi, về ngôn ngữ, bên cạnh chữ Hán đã xuất hiện sáng tác bằng chữ Nôm.

III. VĂN HỌC VIẾT HÀ NAM THế KỶ XIX

Thế kỷ XIX gắn với triều Nguyễn (từ 1802). Đến khoảng mươi năm đầu thời Tự Đức (1848-1858), nghĩa là nửa đầu của thế kỷ này thì lịch sử xã hội vẫn thuộc thể chế quân chủ. Sau năm 1858 trở đi, xã hội đã có nhiều biến động. Người Pháp xâm chiếm Việt Nam và đặt dần ách đô hộ. Theo gót thực dân Pháp, văn hoá, văn học phương Tây cũng tràn vào. Tất cả, đã tạo nên sự thay đổi về quan niệm văn học, ngôn ngữ văn học và khuynh hướng văn học so với truyền thống. Văn học viết Hà Nam cũng nằm trong tình trạng chung đó.

Tuy vậy, văn học viết thế kỷ XIX vẫn tiếp nối được văn mạch của thời Lê- Mạc. Vẫn thấy khá nhiều thơ vịnh sử. Tương truyền, Hồ Xuân Hương có thơ Nôm về Kẽm Trống ở huyện Thanh Liêm:

Hai bên thì núi giữa thì sông,

Có phải đây là Kẽm Trống không?

Gió giật sườn non khua lắc cắc,

Sóng dồn mặt nước vỗ long bong.

Ở trong hang núi còn hơi hẹp,

Ra khỏi đầu non đã rộng thùng.

Qua cửa mình ơi nên ngắm lại,

Nào ai có biết nỗi lưng bồng.

Bài thơ vịnh cho thấy tính đa nghĩa của ngôn ngữ Nôm đã được khai thác và vận dụng hết mức. Cả sáng tác lẫn tiếp nhận kiểu thơ này đều thuộc phạm trù lịch sử. Cách địa danh Kẽm Trống không xa lắm là làng Bảo Thái, nơi có đền thờ Hoàng đế nhà Lê - cũng thuộc vùng Thanh Liêm. Bạch Đông Ôn viết Quá Lê đế miếu nhân đề (Qua miếu thờ Hoàng đế nhà Lê, đề thơ):

Địa thấp thiên ôn thảo mộc phì,

Xuân sơ vãng thám Thái hương từ.

Giáo đồng cố trạch kim do tại,

Tổ ốc tiên lai cổ vị di.

Bảo quốc anh hùng lưu Bắc sử,

Hộ dân sự nghiệp trí Nam bi...

(Đất ẩm, trời ấm cây cỏ mơn mởn,

Đầu xuân tới viếng ngôi đền làng (Bảo) Thái.

 

Nền nhà cũ dạy trẻ giờ vẫn còn,

Nơi tổ phụ ở lúc đầu, từ xưa chưa đổi.

Vị anh hùng giữ nước, danh lưu Bắc sử,

Sự nghiệp an dân còn ghi trong bia đá trời Nam...)

Bạch Đông Ôn sinh năm 1811, Lê Hoàn mất   năm 1005, như vậy bài thơ cho thấy di chỉ Lê Hoàn ở Bảo Thái trải đến hơn 8 thế kỷ mà vẫn còn khá nguyên vẹn.

Viết về thời Trần, Đinh Gia Hội vịnh Trần Thương (Đền Trần Thương):

Thủ Độ sinh thời cứ thử phương,

Trúc đệ kiến lũy lập binh thương.

Thiên triều vị yếm Nam xâm nhật,

Hưng Đạo tiên phòng diệc tích lương

Nhân đố Lý thần tàn ác thậm,

Hựu suy Trần tướng võ công dương...

(Thủ Độ lúc sinh thời chiếm cứ nơi này,

Đắp bờ xây lũy lập kho binh lương.

Thiên triều chưa lúc nào từ bỏ ý muốn xâm lấn phương Nam,

Hưng Đạo phải phòng bị trước việc tích chứa lương thảo.

Nhân tâm đã oán ghét kẻ bề tôi nhà Lý tàn ác,

Lại suy tôn vị tướng nhà Trần võ công hiển hách...)

Không chỉ cảm hứng lịch sử được tiếp nối mà cảm hứng thế sự cũng thấy ở rất nhiều sáng tác thơ văn. Có điều, nó đã mang một sắc thái mới. Phạm Văn Nghị khi đi hộ đê đã viết Tri Lý Nhân phủ nhân hành đê ngẫu thuật Thanh Liêm huyện sự trạng (Làm Tri phủ Lý Nhân nhân coi đê thuật lại tình trạng huyện Thanh Liêm):

Khứ niên chi hoả, kim niên thuỷ,

Thanh Liêm nhất huyện hà đa sự.

Kỳ vị thiên da ức nhân da,

Hoặc nhiên giả số tất nhiên lý.

(Năm ngoái cháy to, nay lụt liền,

Thanh Liêm một huyện rối bao phen.

 

Do trời, hay bởi người nên nỗi,

Là số hay là lý tất nhiên?)

Thơ Nguyễn Khuyến cũng miêu tả nhiều cảnh lụt lội, thiên tai. Nhưng đó là cái hiện thực làng quê, lại có cái hiện thực phố. Tú Xương viết ông Cò:

Hà Nam danh giá nhất ông Cò,

Trông thấy ai ai chẳng dám ho.

Hai mái trống toang đành chịu dột,

Tám giờ chuông đánh phải nằm co.

Người quên mất thẻ âu trời cãi,

Chó chạy ra đường có chủ lo.

Ngớ ngẩn đi xia may vớ được,

Chuyến này ắt hẳn kiếm ăn to.

Bài thơ đả kích một nhân vật phản diện ở Hà Nam. Cái thực trạng hài hước ấy là ánh phản của sự va chạm văn hoá. Rõ ràng đời sống cổ truyền đã bị văn minh phương Tây làm cho rạn nứt. Nhà thơ đả kích một kẻ đại diện cho trị an thời Pháp thuộc, ý định ấy là tốt; nhưng cái lề thói “sinh hoạt” bừa bãi thì có nên giữ mãi không?

Tâm sự thời cuộc còn được phản ánh bằng hình thức ngụ ngôn. Vũ Văn Lý viết Gia cẩu (Chó nhà):

Vô học nhi tri thế bất đa,

Hữu lai môn vấn thị thuỳ da?

Phi nhân cẩm trướng kim sàng ngoạ,

Vi thú chiêm đoàn đạo tịch khoa.

Trung hiếu thành tâm cứ giáo dưỡng,

Thuận tòng nguyện báo hữu thi ca.

Cổ thời khắc thạch tiêu huân nghiệp,

Kim giám thiên thu đối hải hà.

(Không học mà đã biết, đời không có mấy,

Có kẻ đến hỏi, đó là ai vậy?

Chẳng phải người nơi trướng gấm nệm vàng,

Là con thú nằm ổ rơm, chiếu rạ.

Thế mà một niềm trung hiếu với người nuôi nấng,

Hết lòng thuận theo, từng có thơ khen.

Thời xưa khắc vào đá nêu công lao,

Nay là gương sáng nghìn thu với non sông, đất nước),

và Miêu nhi (Con mèo):

Sinh cư sơn lý hạ nhân gian,

Vị luyến bần dân trợ nhất nan.

Diệt thử lương tài thiên cổ trọng,

Cứu hoà duy vọng vạn hương an.

Xã tắc bất đạn trừ nguy hại,

Thảo xá phi vong té vũ hàn.

Đáo lão trung trinh tòng cựu chủ,

Tự tiền mạc chí hậu lai khan.

(Sinh ra từ rừng núi, xuống nhân gian,

Vì thương người nghèo mà giúp việc khó khăn.

Có tài diệt chuột, ngàn xưa trọng vọng,

Cứu lúa chỉ mong làng xóm no ấm.

Nơi đàn xã không ngại trừ nguy hại,

Nơi nhà tranh không quên giúp rét mưa.

Đến già vẫn trung trinh theo chúa cũ,

Sao chẳng ai ghi lại (điều ấy) để kẻ sau xem gương).

Viết về chó, về mèo là để nói về công lao giúp rập, khuông phò và để nói về chữ trung. (Phạm Quý Thích cũng có tác phẩm Bần gia nghĩa khuyển truyện (Truyện con chó nhà nghèo có nghĩa) là để chỉ lòng trung với vua Lê, ám chỉ đả kích kẻ bỏ Lê, theo Nguyễn hồi đầu thế kỷ XIX). Còn ở đây, Vũ Văn Lý cũng nói đến chữ trung, nhưng không phải trung với triều này hay trung với triều kia, mà là trung quân, ái quốc. Có thể thấy lịch sử đã tác động đến tâm lý, nhận thức người cầm bút. Có cái gì đó đang xảy ra và đang có sức lay động khá sâu.

Đinh Gia Hội viết Dị giáo (Giáo phái lạ):

Vị sùng dị giáo chí sinh tai,

Đắc bệnh nan trừ cô bệnh sai.

Lý, Phạm dĩ Lê nhân trạch thiếp,

 

Bùi, Dương vị thực thiểu sung hoài.

Đông minh ngự bảo thiên dân tử,

Nam hải phòng thành vạn thế mai.

Vị kiến lương du tòng thượng xuất,

Tiên tri loạn thế dĩ trùng khai.

(Vì súng giáo phái lạ nên mới có tai hoạ,

Bệnh mới không trừ, thành cố tật thì khó chữa.

Hai họ Lý, Phạm lấy danh phù Lê thấm ơn nhân đức,

Họ Bùi, họ Dương thì vin lẽ rằng đời sống cực khổ.

Tại miền Đông đồn luỹ phòng ngự chết hàng nghìn dân,

Duyên hải phía Nam việc chống trọi không kết quả.

Chẳng biết triều đình có mưu kế gì hay,

Hẳn là đời loạn lại đã hiện từ đây).

Không khí mà bài thơ miêu tả không có gì khác câu thơ Nguyễn Đình Chiểu “Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây”. Vậy là thời cuộc thay đổi được diễn tả rất rõ ràng trong bài thơ. Và người trí thức lại “ưu thời mẫn thế” trong những vần thơ lo lắng cho vận nước. Không ít lần cụm từ Quốc vận đã ngân lên với niềm khắc khoải. Bùi Dị viết Ngộ Tam Đăng Phạm công Đăng Giảng (Gặp ông Phạm Đăng Giảng quê ở Tam Đăng):

Hương thuỷ Bình sơn tự cổ như,

Bất tri quốc vận hữu đồng cư.

Tửu trà diên thượng nghi vô túy,

Ngã nhĩ quy hoài diệu hữu tư...

(Nước Hương Giang, núi Ngự Bình từ xưa vẫn thế,

Chẳng biết vận nước có vững được thế chăng?

Rượu chè trên tiệc chớ nên say sưa,

Ta và ông trở về nên cố tìm diệu kế hay...)

Bùi Kỷ viết trong bài Bái Đặng Xá Phật (Lễ Phật chùa Đặng Xá):

Vị tri quốc vận như hà giả?

Duy Vọng gia hương miễn thụ hoàng...

 

(Chẳng hiểu rồi vận nước sẽ ra sao?

 

Chỉ mong quê nhà được yên lành)...

Vận nước đang đứng trước thử thách, câu hỏi đánh hay hoà lúc ấy chia sĩ phu thành hai phái. Điều đó cũng ảnh hương tới văn học. Thuộc phái quyết đánh Pháp, Trần Huy Liễn viết Nam lộ chi Sơn Thuỷ tự ngộ Giao Cù Vũ Hữu Lợi công (Trên đường từ phía Nam đến chùa Sơn Thuỷ gặp ông Vũ Hữu Lợi người Giao Cù):

Sóc phong đại khởi giác thân hàn,

Hốt ngộ mao gia tại lộ bàng.

Thuỷ nhập ẩm trà bôi bán hạc,

Tức phùng Vũ tướng diện tương hoan.

Sinh cư loạn thế thân hà miễn,

Khuyến vị hương dân đảm bất hàng...

(Gió Bắc ù ù thổi, thấy ớn lạnh,

Bỗng gặp ngôi quán tranh bên đường.

Mới vào uống được nửa chén trà,

Gặp ngay họ Vũ, mặt nhìn mặt đều vui.

Sống vào thời loạn, thân mình sao có thể tránh?

Khuyên nhau vì dân mà gánh vác không hàng...)

Tri phủ Nam Xang Hoàng Văn Tuấn nghe tin nhà Nguyễn ký hoà ước bèn bỏ quan về quê kháng Pháp, làm thơ tỏ chí:

Xã tắc đắm chìm dân đau thương,

Chim muông, tôm cá cũng tai ương.

Bao giờ đất nước thu về được,

Ngâm khúc khải hoàn yên bốn phương.

Có người từ quan về sống ẩn dật, bất hợp tác, tỏ lòng trong thi văn. Tiêu biểu là Nguyễn Khuyến. Sống ẩn dật, điền viên vốn là phong cách có từ trong sáng tác giai đoạn trước, đến đây lại được tiếp nối và cũng mang những sắc thái mới.

Vườn Bùi chốn cũ,

Bốn mươi năm lụ khụ lại về đây...

Nguyễn Khuyến đã viết như thế, mở đầu cho thời kỳ quy ẩn. Ông về quê Yên Đổ làm thơ trào phúng đả kích quan lại, đả kích cả triều đình hèn yếu và cười cợt cả sự bất lực, vô tích sự của mình - một kẻ được tiếng là mũ áo. Từ ông, xuất hiện nhân vật con người thừa trong văn chương. Ông làm thơ Nôm vịnh cảnh làng quê và để lại chùm bài thơ mùa thu nổi tiếng. Có người gọi ông là nhà thơ làng cảnh. Có nhà nghiên cứu còn phát hiện ra rằng cái ao nhỏ trong veo tận đáy, bầu trời xanh xanh ngắt đến vô cùng chính là để diễn tả sự trống rỗng của một tâm trạng bi kịch: “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt; Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe”. Đó là cái bi kịch của người trí thức mất nước, tấm lòng của nhà thơ đối với đất nước, non sông thầm lặng mà sâu sắc. Nguyễn Khuyến sáng tác nhiều cả thơ chữ Hán lẫn chữ Nôm. Ông là tác giả của những vần lục bát tài hoa, giàu cảm xúc:

Bác Dương thôi đã thôi rồi,

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta...

Rượu ngon không có bạn hiền,

Không mua không phải không tiền không mua...

Tuổi già giọt lệ như sương,

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan...

Nguyễn Khuyến còn là tác giả đầu tiên của loại thơ song ngữ, làm thơ chữ Hán và tự dịch ra Nôm. Cả bài chữ Hán, bài chữ Nôm đều song hành tồn tại, và cùng một chủ thể sáng tạo.

Sự nghiệp thơ văn Nguyễn Khuyến khép lại thế kỷ XIX, khép lại cả thời kỳ văn học Hán-Nôm, không chỉ của riêng văn học viết Hà Nam mà là của cả văn học viết dân tộc. Có thể nói ông là một tập đại thành những thành tựu thơ ca Hán-Nôm.

B - VĂN HỌC VIẾT HÀ NAM Từ ĐẦU thế kỷ XX ĐẾN NAY

Phân chia văn học viết thành hai thời đại văn học lớn, cũng chỉ mang tính ước lệ. Thực ra từ nửa cuối thế kỷ XIX, những yếu tố của một bộ phận văn học mới đã hình thành và phát triển khác với văn học truyền thống bằng Hán-Nôm. Cho đến cuối thế kỷ XIX bộ phận văn học mới đó đã lộ diện khá rõ, sang nửa đầu thế kỷ XX thì nó đã tăng tốc và bỏ xa hẳn văn học truyền thống. Đó là văn học quốc ngữ La-tinh. Như vậy có một khoảng thời gian dài gần một thế kỷ, từ thời điểm Pháp sang xâm lược (1858) đến khi Nhật ký trong tù bằng chữ Hán xuất hiện (đầu những năm 40 của thế kỷ XX), văn học Hán-Nôm truyền thống và văn học quốc ngữ đan xen nhau. Quãng cuối thế kỷ XIX văn học truyền thống còn chiếm ưu thế, thì ở mấy chục năm đầu thế kỷ XX, văn học quốc ngữ (La-tinh) đã chiếm ưu thế hơn hẳn. Tinh hình ấy cũng được thể hiện khá rõ ở văn học viết Hà Nam giai đoạn này.

I.    VĂN HỌC VIẾT HÀ NAM Từ Đầu THế KỶ XX ĐếN 1945

Kép Trà là nhà thơ nối tiếp truyền thống trào phúng từ Nguyễn Khuyến, Tú Xương. Nguyễn Khuyến trào phúng mà thâm thúy, hài mà bi. Tú Xương trào phúng sâu cay, còn Kép Trà thì đả kích trực diện, đốp chát, giọng thơ quyết liệt:

Trói thằng đánh dậm lần lưng khố,

Bắt đứa hoang thai liếm đũng quần...

Ông mạt sát, thậm chí chửi rủa bọn tham quan ô lại, chửi thẳng tên, chỉ đích danh:

Tụng tếch, Tuân đi, Tôn đã qua,

Mần răng lại gặp cái bầy choa.

Ba que nó vẫn dòn tay sỏ,

Chín tổng nào ai há miệng ra.

Châm đóm đã mòn chân chó sói,

Soi gương chẳng thẹn mặt dơi già...

Nhưng nhiều khi thơ ông cũng mát mẻ, bóng gió:

Quan lớn về coi Phủ Lý tôi,

Dân nhiều thổ sản khó lòng xơi.

Duy Tiên bún trắng hai chiều chợ,

Kim Bảng sim xanh mấy ngọn đồi.

Bình Lục phì phèo mồi thuốc vặt,

Thanh Liêm bỏm bẻm miếng trầu hôi.

Nam Xang mang tiếng dân cò trắng,

Đồng ruộng, ao sâu lắm ốc nhồi.

(Gửi quan tỉnh Hà Nam mới nhậm chức)

và Cảnh nhà được ông miêu tả, vẫn là hài mà đượm nỗi chua xót:

Ba gian nhà rách tách làm hai,

Gia chủ ngủ trong, khách nợ ngoài.

Mặt đứa tiểu đồng ngay cán thuổng,

Lưng con thị nữ lép bàn mai.

Chó nằm kẽ ngạch nhờ hơi đất,

Lợn đứng bờ ao mút dãi khoai...

Trào phúng cũng là một khía cạnh của văn thơ yêu nước. Trong văn học viết Hà Nam đầu thế kỷ XX còn có một số tác giả trực tiếp thể hiện lòng yêu nước qua thơ văn. Tiêu biểu trong số đó là Phạm Tất Đắc với bài Chiêu hồn nước - những vần thơ ngang trời dọc đất:

Cũng nhà cửa, cũng giang san,

Thế mà nước mất nhà tan hỡi trời.

Nghĩ lắm lúc đang cười hóa khóc,

Muốn ra tay ngang dọc, dọc ngang.

Vạch trời thét một tiếng vang,

Cho thân tan với giang san nước nhà...

Ngoài ra, trong văn học yêu nước Hà Nam còn xuất hiện khá nhiều tên tuổi khác như là Hồ Xanh, Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Duy Huân. Thơ văn của những tác giả này hòa nhập cùng văn học yêu nước của cả dân tộc với những tác giả - chí sĩ như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Huỳnh Thúc Kháng...

Hồ Xanh sáng tác bài thơ Với nhà thi sĩ để thể hiện bằng thơ quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh của mình. Thơ ông còn có những hình ảnh rất chân thực về cuộc sống lam lũ của người dân quê, như hình ảnh một người nông dân đang bừa ruộng.

Anh thợ cày đầu ruộng nặng đưa chân,

Đang bừa xốc, áo quần bùn nước xạm.

... Còng rạp lưng, anh thở hơi hồng hộc,

Luống cày dài anh đè đầu cỏ ngóc.

... Một cây đa im lặn ạ đứng trên đồng,

Nhìn anh tắm dòng mồ hôi hoen ố.

Trước mặt anh đống thịt đứng lù lù,

Đang nghiêng kéo anh đi và lúc lắc.

Đống thịt? Là vợ anh, là con vật,

Ôi! “Con trâu người” phơi dưới vầng ô.

(Đang bừa)

Hay hình ảnh một Bà hàng bánh ngồi bán bánh sau trận lụt lớn:

Dựa gốc đa một bà già lọm khọm,

Ôm mẹt bánh chưng ngồi như sâu róm...

... Bà đợi khách mắt mờ, mồm há hốc,

Trên đầu rối, mối tơ xòa trắng mốc

Có ai qua? bà mời khẽ phều pháo...

Thế rồi:

Từ xa đến, bộ xương người chậm chạp,

Bước uể oải, lồng mắt lia tia xám.

Rồi thò tay, quờ giật bánh chạy liền...

Hóa ra cả người có bánh bán, lẫn người ăn cướp bánh đều là những kẻ đang lâm vào cảnh sắp chết đói. Vậy nên, khi đuổi kịp, bắt được kẻ ăn cướp thì:

... Hai bộ xương mắt nhìn hau háu

Mưa lệ đâu cùng chảy loãng mồ hồi,

Cùng đau thương, cùng sùi sụt giữa trời.

Thơ ca yêu nước Hà Nam đến đây, tuy vẫn có bộ phận nối mạch với trào phúng truyền thống, nhưng ngôn ngữ và đề tài đã mới hẳn. Quan niệm văn học cũng đã có phần nhập lưu với thế giới chứ không chỉ hạn hẹp trong văn học vùng Đông Á nữa.

Đầu thế kỷ XX, văn học viết Hà Nam cũng xuất hiện một loại hình tác giả mới: vừa là nhà thơ, nhà văn vừa là nhà khảo cứu phê bình. Đó là hiện tượng Bùi Kỷ.

Bùi Kỷ sáng tác khá nhiều thơ và điều lạ là ông làm thơ quốc ngữ trước khi làm thơ chữ Hán. Ông làm thơ chữ Hán từ khi đi kháng chiến chống Pháp đến khi mất (1960). Thơ Bùi Kỷ cũng có bài trào phúng, tương tự giọng thơ cười mỉa, biếm trích của Nguyễn Khuyến như bài Phường chèo chẳng hạn:

Áo xiêm lụng thụng cũng ê chề,

Mỗi một trò ra một lũ hề.

Cười khóc mặt kia thường giả dối,

Gian ngay vai ấy mặc khen chê.

Phấn son loang lổ mà nên chuyện,

Trống mõ lung tung cũng đủ nghề...

Bài thơ được chính tác giả chú thích là “viết vào lúc thay đổi /Nội các của triều Huế hồi Nhật chiếm đóng”.

Còn nói chung, thơ ông bàng bạc, hoài cảm, chán quan trường nhưng lại nhiều băn khoăn, ưu lo về lẽ đời, lẽ đạo, về sự hành xử của bản thân. Tác giả Tự thán:

Lờ đờ mặt trắng đời không bạn,

Lận đận đầu xanh tuổi đã già.

Sống nổi không chìm nên mến nước,

Người tan muốn hợp phải lo nhà.

Rạp tuồng vân cẩu còn đông khánh,

Góc túi càn khôn đủ chứa ta...

Hay như tác giá Tâm sự.

Hình hài mặc kệ có hay không,

Chỉ một lòng đây tự biết lòng.

Một khối gan liền như sắt đá,

Chín hồi quấn chặt với non sông.

Đen thay trắng đổi càng tươi thắm,

Nguyền nhạt thề phai vẫn thủy chung.

Lòng tự biết lòng, lòng mới hả,

Hình hài mặc kệ có hay không.

Và Bùi Kỷ còn có Thân thế luận, Văn bia kỷ niệm Tiên Điền Nguyễn tiên sinh, Vân chương và hàng chục bài khảo cứu, giới thiệu, dẫn giải về các tác phẩm văn học cổ, trung đại. Ông là một trong những học giả có công lớn trong việc xây nền, đắp móng cho khoa nghiên cứu văn học cổ nước nhà. Ông còn là dịch giả mấy tác phẩm văn học cổ nổi tiếng như Tam quốc diễn nghĩa (Trung Quốc) và Bình Ngô đại cáo (Việt Nam)...

Một người có đóng góp khảo cứu văn hóa kiểu như Bùi Kỷ, nhưng ở một mảng hẹp hơn là Ngô Vi Liễn, tác giả Địa dư huyện Bình Lục. Mới nghe, thì đây là một cuốn địa chí. Nhưng đi sâu xem xét tác phẩm thì thấy đây là một cuốn địa chí văn hóa. Ngoài những phong tục, tập tục, hội lễ, đền, chùa, đình, quán được miêu tả và ghi chép kỹ lưỡng, còn có hàng loạt các thần tích, thần phả, truyện ký được tái hiện đầy đủ, công phu. Người làm văn học dân gian mà gặp được Địa dư huyện Bình Lục thì coi như đã có trong tay một tập tài liệu vô cùng quý.

Sáng tác văn học Hà Nam quãng cuối những năm 30 của thế kỷ trước, xuất hiện hai tên tuổi: Nam Cao và Bàng Bá Lân. Trong đó, Nam Cao là một nhà văn lớn. Nếu ở văn học Hán-Nôm truyền thống, Hà Nam có thi hào Nguyễn Khuyến, thì ở văn học quốc ngữ hiện đại, Hà Nam có văn hào Nam Cao. Hai tên tuổi lớn đó, đại diện cho hai thời đại văn học, khiến Hà Nam nổi danh là đất văn chương, là niềm tự hào của văn học viết Hà Nam nói riêng và của cả nước nói chung.

Nam Cao trước 1945 là tác giả của rất nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết. Trong đó, đặc biệt phải kể đến Chí Phèo và Sống mòn.

Chí Phèo là hình tượng văn học điển hình của người nông dân bị bần cùng đến mức lưu manh hóa. Đó là ý nghĩa của ngôn bản tác phẩm. Nhưng còn “ý tại ngôn ngoại” của Chí Phèo, có lẽ rộng hơn. Đấy là hình tượng điển hình của con người khi người ta đã bị đẩy đến đường cùng, khi bị tước đoạt hết những gì là thiện, là chân còn sót lại. Chẳng phải là đã xuất hiện khá nhiều những “anh chí” các kiểu, các loại đó sao?

Sống mòn cũng xây dựng được một nhân vật điển hình - giáo Thứ là điển hình cho lớp trí thức nghèo và cũng có phần bị bần cùng hóa. Họ cố giữ cái thiện lương của tâm hồn và cái thiện lương của nghề nghiệp, nhưng rồi nhiều khi vẫn bị đẩy vào những hoàn cảnh phải toan tính một cách ty tiện, đầy tội nghiệp. Giáo Thứ cũng là hình ảnh của những “ông đồ” xưa, tuy thanh sạch nhưng còm cõi và khổ ải. Như ông đồ “ba quan” trong văn Phạm Quý Thích: “Ba quan trò trẹt cày bằng lưỡi; Mấy miệng thê nhi, gắng đủ ăn”; hay “quan đồ” đầy biếm họa trong thơ Tú Xương: “Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ”... Và giáo Thứ còn là hình ảnh ám ảnh mãi trong lòng các nhà giáo nghèo suốt một thời khá dài.

(Còn nữa)

Điện tử

Bình luận bài viết

Bình luận

BÁO HÀ NAM ĐIỆN TỬ

Giấy phép xuất bản số 68/GP-BTTTT do Bộ Thông tin - Truyền thông cấp ngày 16/2/2017

Địa chỉ: Đình Tràng, phường Lam Hạ, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam

Tổng Biên tập: Nguyễn Duy Tuấn

Điện thoại: (0226) 3852.773 - 3853.342 | Fax: (0226)3853.342

Email: baohanam.dientu@gmail.com

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Nha khoa Daisy