kita group giới thiệukita group dự ánkita group liên hệkita group STELLA MEGA CITYkita group STELLA RESIDENCE
Địa chí huyện Bình Lục: Văn hóa

Địa chí huyện Bình Lục: Văn hóa

Phần thứ tư – Văn hóa – Xã hội: Chương I. Văn hóa

CHƯƠNG I. VĂN HÓA

I. KHÁI QUÁT VĂN HÓA BÌNH LỤC

Văn hóa Bình Lục vừa có những tính chất chung của vùng châu thổ Sông Hồng, vừa có những nét riêng. Có thể khái quát thành những đặc điểm sau.

1. Nền văn hóa có lịch sử lâu đời

Với việc phát hiện các di vật khảo cổ học ở núi An Lão và các trống đồng Đông Sơn, cho thấy vào trung kỳ thời đại đồ đồng cách ngày nay gần 3000 năm, con người đã cư trú trên đất Bình Lục. Người Việt cổ khi ấy đã thành thạo trong việc trồng lúa nước. Những tín ngưỡng sơ khai như thờ mặt trời, tô tem… đã xuất hiện. Nghệ thuật âm nhạc, múa, mỹ thuật… nguyên thủy ra đời. Tiếp theo là những truyền thuyết, huyền tích về các nhân vật thời Hùng Vương, các tướng lĩnh của Hai Bà Trưng phổ biến ở nhiều địa phương trong huyện.

2. Nền văn hóa đa dạng, phong phú

Trong diễn trình lịch sử giống như các địa phương trong cả nước, văn hóa Bình Lục có sự tồn tại đồng thời hai thành phần: Văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể.

Văn hóa vật thể Bình Lục gồm các công trình kiến trúc dân dụng như nhà ở với nhiều kiểu; các công trình tín ngưỡng, tôn giáo như đình, chùa, đền, miếu, phủ, từ đường, nhà thờ công giáo… có mật độ khá dầy. Đó còn là số lượng lớn các di vật, cổ vật được lưu giữ trong các cơ sở thờ tự của tôn giáo, tín ngưỡng và nhà dân…

Văn hóa phi vật thể Bình Lục cũng rất phong phú. Đó là văn học nghệ thuật dân gian, phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng lễ hội, nghề thủ công truyền thống, y dược học cổ truyền, văn hóa ẩm thực…

3. Nền văn hóa lúa nước điển hình

Trong lịch sử, một thời gian rất dài Bình Lục là vùng đồng chiêm trũng. Văn hóa Bình Lục đã thể hiện rất sâu đậm tư duy, tình cảm, bản lĩnh của nông dân Bình Lục. Nổi bật là phản ánh tinh thần đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm, lòng yêu nước, thương nòi. Đồng thời còn là sự cần cù lao động, khắc phục trở lực của thiên nhiên. Con người Bình Lục còn không ngừng bồi đắp những giá trị nhân văn tốt đẹp trong cộng đồng gia đình, làng xã và xã hội.

II. DI TÍCH VÀ DI VẬT, CỔ VẬT

1. Di tích

Huyện Bình Lục có mật độ di tích khá dày đặc gồm đủ loại hình. Theo thống kê năm 2019 trên địa bàn hiện có 383 di tích (không tính nhà thờ công giáo) gồm 168 đình, 120 chùa, 73 đền, 40 miếu, 49 phủ, 7 từ đường, 01 văn từ, 01 điện, 12 điếm, 01 dinh, 01 địa điểm di tích.

Nhiều di tích đã được nhà nước xếp hạng cấp quốc gia và cấp tỉnh.

a. Cấp quốc gia

Địa chí huyện Bình Lục Văn hóa

b. Cấp tỉnh

Địa chí huyện Bình Lục Văn hóa

c. Các di tích tiêu biểu

* Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh

Di tích thuộc thôn Cát Tường thị trấn Bình Mỹ. Nơi đây ghi dấu sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm và động viên cán bộ, nhân dân đắp đập sông Sắt chống hạn, cứu lúa.

Địa chí huyện Bình Lục Văn hóa
Khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại thôn Cát Tường, xã An Mỹ - nơi Người nói chuyện, động viên cán bộ và nhân dân huyện Bình Lục chống hạn (Di tích lịch sử Quốc gia năm 2018).

Ngày 14/01/1958, sau khi dự hội nghị sơ kết công tác chống hạn của tỉnh Hà Nam, vào khoảng 9 giờ Bác Hồ đã tới thăm công trường đắp đập thuộc thôn Cát Tường xã An Hòa (nay thuộc thị trấn Bình Mỹ) đang khởi công để lấy nước cứu hàng ngàn mẫu lúa chiêm đang bị khô hạn.

Trước đông đảo cán bộ, nhân dân Bác khen ngợi quyết tâm hoàn thành con đập của địa phương. Đập đã hoàn thành vượt kế hoạch chưa đến 5 ngày, dài 120m bề mặt rộng hơn 2m, cao bằng mặt đê, chắn ngang sông Sắt, tạo điều kiện tốt để giữ nước, chống hạn.

* Đình Triều Hội

Di tích thuộc xã Bồ Đề, ở vị trí trung tâm xã. Đình thờ hai vị Thành Hoàng làng là Cao Mang Tôn Thần, tướng nhà Trần và Hoàng Giáp Trần Xuân Vinh, làm quan triều vua Lê Thánh Tông.

Ngôi đình bề thế, thiết kế kiểu chữ Tam. Tiền đường 5 gian, tòa đệ nhị 5 gian và hậu cung 3 gian, mái lợp ngói nam.

Ngôi đình trở nên nổi tiếng với sự kiện cuộc biểu tình tuần hành thị uy do Tỉnh ủy Hà Nam tổ chức vào ngày 20/10/1930 tại sân đình. Cuộc biểu tình có ảnh hưởng lớn trong tỉnh Hà Nam và các tỉnh lân cận, có tiếng vang trong nước.

* Từ đường Nguyễn Khuyến

Từ đường là nơi thờ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, thuộc thôn Vị Hạ, xã Trung Lương.

Từ đường nguyên là một phần của khu nhà cũ của gia đình, gắn bó với những năm cuối đời nhà thơ, từ quan về quê sinh sống.

Từ đường gồm 3 gian, bộ khung làm bằng gỗ lim, mái lợp ngói nam. Chạm khắc trên các cấu kiện kiến trúc mang phong cách thời Nguyễn (thế kỷ XIX) gian giữa tòa tiền đường đặt ban thờ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến. Nhiều kỷ vật quý gắn bó với nhà thơ vẫn còn được lưu giữ như hòm sách, ống quyển, sập gụ, hai biển vinh qui, câu đối, đặc biệt là tấm ảnh chân dung Nguyễn Khuyến lúc sinh thời.

Địa chí huyện Bình Lục Văn hóa
Địa chí huyện Bình Lục Văn hóa
Nhà từ đường danh nhân Nguyễn Khuyến.

Năm 2004, nhà nước đã cho khôi phục ngôi nhà 7 gian vốn trước kia ở trước từ đường, cải tạo ao thu, chỉnh trang khuôn viên. Hàng năm vào ngày rằm tháng Giêng âm lịch, tại khuôn viên từ đường diễn ra lễ tưởng niệm trang trọng tri ân, tôn vinh Thi bá - Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến.

* Đình Vị Hạ

Đình Vị Hạ (xã Trung Lương) là ngôi đình có niên đại sớm của huyện Bình Lục và tỉnh Hà Nam.

Đình thờ 4 vị nhân thần: Hai vị tướng thời Hậu Lê là Lã Vương cư sĩ, Đông Hải Đại Vương Nguyễn Phục cùng Thiên Cương Địch Cát (vị cao tăng tu ở chùa làng) và Chu Đương Đại Vương có công giúp Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn dẹp loạn 12 sứ quân.

Ngôi đình bề thế, bốn mái cong lợp ngói nam, mang phong cách kiến trúc thế kỷ XVII, XVIII, tọa lạc trên khuôn viên rộng ở đầu thôn cạnh con đường dẫn khách đến thăm từ đường Nguyễn Khuyến.

Đình có kiến trúc đồ sộ, bố cục hình chữ Đinh gồm hai tòa: Tiền đường 3 gian, 2 chái, hậu cung 3 gian. Bộ khung gỗ lim của tòa tiền đường gồm 36 cột cái, cột quân cỡ lớn cùng các cấu kiện khác. Đình Vị Hạ có nhiều mảng chạm khắc đẹp, độc đáo, đậm chất dân gian như ly mớm nhau, người đóng khố trèo cây bắn thú, người cầm dao thiến thú, thú vồ cá, ly cậy răng rồng, đáng chú ý là trên bức mê thượng của hậu cung có hai bức chạm “Hà đồ”, “Lạc thư” do nhà thơ Nguyễn Khuyến cho tạc để cầu phúc cho dân làng.

Đình còn lưu giữ được nhiều cổ vật quý, tiêu biểu là nhang án, khám thờ, câu đối, cửa võng.

* Đình, chùa Đông Du Trung

Di tích thuộc thôn Đồng Du Trung, xã Đồng Du nằm trên các thửa đất liền khoảnh.

Đình thờ hai vị tướng Nguyễn Sùng, Nguyễn Hiển và Tản Viên Sơn Thánh thời Hùng Duệ Vương, phối thờ Đông Hải Nguyễn Phục thời Hậu Lê và các vị tổ lập làng.

Chính diện đình quay hướng tây, hai bên sân đình là tả vu, hữu vu, đều 3 gian mái lợp ngói nam.

Đình thiết kế hình chữ công gồm ba tòa: tiền đường 5 gian, mái lợp ngói nam, bộ khung gỗ chịu lực bằng gỗ lim có 6 vì, 6 hàng cột. Tòa trung đường và hậu cung làm kiểu giao mái bắt vần, khung gỗ lim, mái lợp ngói nam.

Các mảng chạm khắc đẹp tập trung ở tòa tiền đường với nhiều hình ảnh: rồng mây phượng múa, ly chầu, cụm hoa sen cách điệu. Đặc biệt có bức phù điêu chạm nổi đậm chất dân gian, người đóng khố cưỡi rồng.

Đình còn lưu giữ nhiều di vật cổ vật: 25 sắc phong, đại tự, hoành phi, câu đối, bát biểu, chấp kích, ngai thờ, kiệu bát cống, nhất là chiếc hương án lớn đặt tại tiền đường rất có giá trị nghệ thuật.

Chùa có tên chữ là Hoa Lâm Tự, là một danh lam có tiếng ở xứ Sơn Nam xưa: Tam quan chùa làm theo kiểu chồng diêm hai tầng với 8 mái mác cong, trên tầng 2 treo quả chuông lớn đúc vào năm Cảnh Thịnh 4 (1796). Chùa chính thiết kế hình chữ Đinh gồm tiền đường 5 gian và thượng điện làm giao mái bắt vần với tiền đường, cả hai tòa đều lợp ngói nam.

Chạm khắc trên các cấu kiện tòa tiền đường có rồng chầu, phượng múa, rùa, ly, mây cuốn, hoa lá đan xen. Chùa có 21 pho tượng Phật và Bồ Tát, 1 tòa Cửu Long. Ngoài ra còn có các đồ thờ giá trị: hoành phi, câu đối, cuốn thư, bia đá… đáng chú ý là chiếc mịch thờ  niên đại thế kỷ XVIII.

* Đình Cả

Đình còn có tên gọi là đình Vọc, thuộc thôn Trung, xã Vũ Bản.

Đình được xây dựng từ thời Lê Trung Hưng, thờ các vị: Vua Trần Thái Tông, Thái Sư Trần Thủ Độ, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuân.

Ngôi đình gồm 4 tòa: Đệ nhất 7 gian, đệ nhị 5 gian, đệ tam 3 gian, hậu cung 3 gian nằm nối nhau. Các tòa đều lợp ngói nam.

Không chỉ là một công trình kiến trúc lớn, kết cấu độc đáo, trên các cấu kiện kiến trúc còn dày đặc các mảng phù điêu gồm các đề tài: rồng, mặt hổ phù, lá lật, long cuốn thủy, ao sen, rùa, phượng hàm thư, cá chép… Đình Cả còn lưu giữ nhiều đồ thờ cổ: 4 cỗ ngai, kiệu bát cống, sập, hương án, chuông đồng, cuốn thư…

* Đình, chùa Cổ Viễn

Đình, chùa Cổ Viễn (xã Hưng Công) chung một khuôn viên.

Đình thờ Nguyễn Hoằng, tướng thời Hùng Duệ Vương, có phong cách kiến trúc thế kỷ XVII, XVIII, mái cong, lợp ngói nam. Thiết kế ngôi đình kiểu chữ Đinh, tòa tiền đường 3 gian 2 chái, hậu cung 4 gian. Đình còn có tả vu, hữu vu nằm hai bên sân đình.

Các đề tài chạm khắc trên các cấu kiện kiến trúc có phượng múa, rồng chầu, ly chạy, đan xen vân ám, lá hỏa. Đồ thờ lưu giữ phong phú, có giá trị nghệ thuật.

Chùa có tên chữ là Linh Quang Tự, thiết kế kiểu chữ Đinh, bít đốc, giật cấp, phong cách kiến trúc thời Nguyễn, mái lợp ngói nam. Thượng điện 3 gian giao mái bắt vần với tòa tiền đường.

Chùa thờ Phật, Bồ Tát. Các pho tượng được tạc công phu, nổi bật là ba pho Tam Thế, tượng Phật A Di Đà.

Trong khuôn viên chùa còn có ngôi miếu thờ Phạm Công Chúa con của vua Lý Thánh Tông và Ỷ Lan phu nhân và nhà tổ, nhà khách, giếng nước, khu lăng mộ các vị sư trụ trì.

Đình chùa Cổ Viễn là địa chỉ đỏ của lịch sử cách mạng Hà Nam. Tại đây đã tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng thời kỳ Đảng ta ra đời. Đặc biệt là cuộc họp của Tỉnh ủy Hà Nam quyết định tổ chức cuộc biểu tình tuần hành thị uy vào ngày 20/10/1930 tại sân đình Triều Hội, xã Bồ Đề.

2. Trống Đồng

Cho đến nay trên địa bàn huyện Bình Lục đã phát hiện được 7 trống đồng, trong đó trống An Tập (thị trấn Bình Mỹ) đã thất lạc từ lâu. Tất cả các trống đều thuộc loại Heger I nằm trong văn hóa Đông Sơn. Bảo tàng lịch sử quốc gia lưu giữ trống Ngọc Lũ I, trống Ngọc Lũ II. Các trống còn lại do Bảo tàng tỉnh Hà Nam lưu giữ.

a. Trống Ngọc Lũ I

Trống vốn để ở đình làng Ngọc Lũ. Năm 1903 do viên công sứ Phủ Lý môi giới trống được đưa về nhà Bác Cổ viễn Đông Hà Nội.

Trống Ngọc Lũ I được đánh giá là một trong số ít trống có kích thước lớn, hình dáng cổ kính, hoa văn phong phú nhất.

Trống có hình dáng cân đối; mặt trống hơi tràn ra ngoài tang có đường kính 79cm, trống cao 63cm, thân chia làm 3 phần: tang trống phình giáp mặt trống; tiếp đến là phần hình trụ tròn thẳng đứng; chân trống hơi loe thành hình nón cụt. Gắn vào tang và phần giữa thân trống là đôi quai kép, trang trí văn bện thừng.

Trống Ngọc Lũ I đã được phiên bản theo tỉ lệ 1/1 và được Chủ tịch nước Lê Đức Anh trao tặng Liên hiệp quốc vào ngày 25/10/1995, được nhà nước công nhận là bảo vật quốc gia đặc biệt.

b. Trống Ngọc Lũ II

Trống do nhà Bác Cổ Viễn Đông Mua tại làng Chủ, xã Ngọc Lũ. Trống có dáng thon, hoa văn trang trí đơn giản, nhưng vẫn cân đối và đẹp. Trống có niên đại Heger I muộn. Đường kính mặt trống 49,5cm, chiều cao của trống 39cm.

c. Trống Ngọc Lũ III

Trống được phát hiện tại làng Chủ (xã Ngọc Lũ) năm 1981, trong tình trạng trống vỡ hết mặt, chân trống, tang trống bị mẻ. Chiều cao của trống 37cm, trống có niên đại Heger I muộn.

 d. Trống Vũ Bị

Trống được tìm thấy ở độ sâu 1,4m tại cánh đồng Mạc, thôn Vũ Bị (xã Vũ Bản) trong khi dân làm thủy lợi ngày 16/4/1969.

Chính giữa mặt trống bị vỡ một miếng to. Tang và thân trống cũng bị rạn vỡ nhiều chỗ. Quai trống cũng bị gãy một chiếc. Đường kính mặt trống 72,5cm, chiều cao trống 60cm, trống có 4 quai kép trang trí văn thừng tết, trống Vũ Bị có niên đại Heger I sớm nhưng muộn hơn trống Ngọc Lũ I.

e. Trống An Lão

Tháng 9/1985, do mưa lớn gây sụt lở đất đá ở sườn đông bắc núi An Lão đã làm lộ ra một chiếc trống đồng ở độ sâu 1,5m.

Trống còn khá nguyên vẹn, hình dáng cân đối, chia thành 3 phần rõ rệt: mặt trống gắn với tang trống phần hình trụ tròn và chân trống. Đường kính mặt trống 52,5cm, trống có hai đôi quai kép, trang trí văn thừng tết.

Trống có niên đại muộn hơn trống Ngọc Lũ I, trống Vũ Bị.

g. Trống An Nội

Ngày 26/12/1998 tại thôn Đình Sáu (xã An Nội), trong khi đào ao, người dân đã phát hiện được trống ở độ sâu khoảng 1m.

Trống không còn nguyên vẹn, mặt trống đứt rời khỏi tang trống, có đường kính 48 cm. Chiều cao của trống 40cm, trống có hai đôi quai kép trang trí văn thùng tết.

Hoa văn trống An Nội khá giống hoa văn trống Ngọc Lũ II nên có thể xếp cùng niên đại.

3. Di vật, cổ vật

a) Di vật khảo cổ

Trong khi khai thác đất đá ở núi An Lão, xã An Lão người dân đã tìm thấy 1 chiếc bôn đá và một nửa khuôn đúc bằng đá trên sườn tây của núi vào tháng 12/2000. Sơ bộ nhận định hai di vật có niên đại gần 3000 năm cách ngày nay.

Cũng trong tháng 12/2000 trong khi canh tác người dân đã phát hiện tại cánh đồng Sốc, cách chân núi An Lão khoảng 300m về phía Bắc 7 chiếc vò bằng đất nung, niên đại thời Đông Hán và 1 chiếc bát tráng men niên đại thời Hậu Lê.

b) Di vật, cổ vật thời phong kiến.

Ở đây chỉ nêu số liệu về bia đá, chuông đồng được khảo sát trong các di tích.

- Bia đá có 111 bia niên đại thời Hậu Lê, Mạc và Nguyễn. Trong đó thời Mạc: 2 bia, thời Hậu Lê: 18 bia, thời Nguyễn: 91 bia. Niên đại sớm nhất là 2 bia tạo tác vào năm 1513, Hồng Thuận 5 đời vua Lê Tương Dực.

- Chuông đồng, chủ yếu là chuông thời Hậu Lê (1711), 3 chuông niên hiệu Cảnh Thịnh (1796, 1798, 1801) đời vua Nguyễn Quang Toản thời Tây Sơn. Còn lại (25 chuông) niên đại thời Nguyễn.

c) Một số cổ vật quý hiếm.

- Bia chợ Chủ (xã Ngọc Lũ), bia có tên “Kim Lũ thị bi ký”, tạo tác vào năm Chính Hòa 2 (1681) đời vua Lê Hy Tông. Lần đầu tiên trong văn bia xuất hiện danh xưng Việt Nam.

- Bia chùa An Thái (thị trấn Bình Mỹ), dựng ngày 26/11/1619 niên hiệu Vĩnh Tộ 1 đời vua Lê Thần Tông. Trong văn bia xuất hiện tên huyện Thanh Lục là do kiêng húy chữ Bình trong tước hiệu “Bình An Vương” của chúa Trịnh Tùng mà đổi Bình Lục thành Thanh Lục.

- Khánh đá chùa Điều, thôn Đông Tự (xã Vũ Bản) được tạo tác vào năm Chính Hòa 13 (1692) đời vua Lê Hy Tông. Là chiếc khánh có bài ký (rất hiếm gặp) đồng thời khánh còn là một tác phẩm mỹ thuật.

III. TRANG PHỤC

Trang phục của cư dân Bình Lục nằm trong dòng chảy của trang phục dân tộc Việt (Kinh) vùng đồng bằng sông Hồng nói riêng đồng bằng Bắc Bộ nói chung.

Trang phục gắn bó với điều kiện tự nhiên, khí hậu của vùng đồng chiêm trũng đồng thời đậm đà bản sắc văn hóa nông nghiệp, nông dân.

1. Lược sử trang phục

a) Quần áo

Trống đồng Ngọc Lũ I còn lưu lại hình ảnh trang phục của con người tiền sử: Đàn ông đóng khổ, đàn bà mặc váy đều cởi trần. Trước thời Bắc thuộc có sách ghi người Việt mặc áo cài bên chái nhưng hình dạng thì không rõ.

Thời Lý, Trần người Việt mặc loại áo cổ tròn (viên lĩnh) gọi là áo “tứ điên” dưới thì vận thường đen. Đàn ông, đàn bà đều mặc như vậy. Ngoài ra còn có các kiểu khác như: áo giao lĩnh (cổ chéo) ở trên, dưới quây thường bên ngoài hay mặc váy bên trong (với nữ) hoặc mặc áo giao lĩnh hay viên lĩnh trên, mặc quần hay khố dưới (với nam). Áo may dài quá đầu gối, cài khuy với áo viên lĩnh, buộc vạt bên phải với áo giao lĩnh.

Thời Hậu Lê áo giao lĩnh phổ biến hơn, thành thường phục trong dân gian. Màu sắc áo cũng đã thành lệ: đàn ông thường dùng áo màu xanh, khi có việc trọng đại thì dùng màu đen, màu thẫm. Người làm ruộng thì dùng màu nâu. Thường dân mặc áo sợi bông. Chỉ người sang trọng mới dùng hàng tơ lụa. Quần thì chỉ có hai màu trắng và nâu. Họa hoằn những người giàu có hay già cả mới dùng quần màu đỏ.

Thời Nguyễn, nam giới đã quen mặc áo dài, một loại áo viên lĩnh may băng năm khổ vải, thân áo dài quá đầu gối, tay áo hẹp. Đàn bà vẫn mặc áo tứ thân, một loại áo giao lĩnh xẻ trước ngực và mặc váy.

b) Khăn, tóc.

Thời Lý, Trần đàn ông đàn bà đều để tóc ngắn đầu trần. Đàn bà để tóc dài hơn đàn ông độ 1 tấc. Đến thời Lê Trung Hưng lại để tóc dài, xõa ra sau lưng, quấn tóc hay búi tóc được coi là kém trang trọng.

Thời nhà Nguyễn đàn ông thường búi tóc. Đàn bà cuộn tóc vào trong khăn rồi quấn thành một vòng quanh đầu.

Phục sức trên đầu thì người Việt dùng khăn, thời Lý đàn ông dùng khăn vấn quấn đỉnh đầu, khăn vấn nhỏ che kín đỉnh đầu chứ không để lộ đỉnh đầu như thời Nguyễn. Thời Trần, Hậu Lê không còn thấy vấn khăn. Người lớn tuổi, người quyền quý thì dùng 1 khổ vải vuông phủ lên tóc. Vấn khăn như ta thấy ngày nay chỉ xuất hiện vào thời Nguyễn.

c) Giày, dép

Người nhà quê thuở trước thường đi chân đất. Khi có việc mới xỏ chân đi guốc bằng gỗ hay hộc tre, buộc quai dọc tết bằng dây mây, sau mới dùng quai ngang bằng da. Guốc phụ nữ đẽo thon hơn, còn guốc đàn ông to bản gọi là guốc xuồng. Gỗ thường để mộc nên gọi là guốc mộc. Người sang trọng mới dùng guốc sơn.

d) Lễ phục

Thời Nguyễn, lễ phục vẫn dùng áo giao lĩnh buộc chéo, nhưng khoác ra bên ngoài khi hành lễ gọi là áo thụng hay bổ phục. Khi tế lễ trong dân gian thì dùng loại áo rộng, ống tay dài gọi là áo tế. Khi có tang thì dùng màu trắng và vải sô, đầu thắt khăn trắng hoặc mũ mấn.

2. Nguyên liệu và cách dệt may

a) Nguyên liệu dệt

Nghề trồng dâu, nuôi tằm trồng bông trước kia diễn ra chủ yếu ở các gia đình. Dâu thường trồng ở vườn, dọc bên đường, bên bờ ao. Nhiều nhất là những làng xã bên sông Châu, sông Ninh. Bông chủ yếu được trồng ở vùng đất cao. Nuôi tằm lấy kén để ươm tơ, dệt lụa, nái đũi.

b) Cách nhuộm, may dân gian

Thường dùng vỏ nâu già đem nấu giã lấy nước sau đó nhuộm, nhúng vải nhuộm trong một ngày.

Củ nâu đem giã nát (hoặc mài) lấy nước, mang vải ngâm, phơi khô khoảng vài lần trong hai ngày.

Lá bàng, lá sòi đem giã, nấu nước, nhuộm cũng như cách nhuộm củ nâu trong ba ngày.

Sau khi nhuộm nước, đem nhúng bùn khoảng một tiếng, phơi khô mới rũ sạch bùn. Thường chỉ nhuộm nâu, sau đó nhúng bùn, ít gia đình nhuộm đầy đủ các loại lá trên.

Nhiều gia đình tự nhuộm lấy. Ở huyện Bình Lục những năm ba mươi của thế kỷ XX có làng nhuộm Phú Đa (xã Bối Cầu) nổi tiếng.

Để may thành áo quần, trang phục, người Bình Lục trước đây thường tự khâu, may lấy. Đàn bà, con gái trong nhà đảm nhiệm việc cắt, khâu, vá cho cả nhà. Nhà giàu có thường đón thợ về thửa, khâu quần áo tại nhà. Sau này hình thành những thợ may có tiếng. Nhiều làng có thợ may, phó may. Đã hình thành những làng dệt may ở Bình Lục xưa kia như: Dệt vải có Cao Cái (xã An Mỹ) An Nội (xã An Nội) Thượng Thọ, Văn Phú xã Mỹ Thọ. Tiên Khoán (xã Vũ Bản). Làng Ngọc Lũ vừa có nghề dệt vải, vừa có nghề may.

3. Các kiểu trang phục truyền thống

a) Trang phục của nam giới

- Áo cánh

Nam giới Bình Lục trước đây mặc áo cánh ngắn, thường được may rộng ở hai ống tay và cửa tay, cổ tròn viền 2 phân hoặc cổ vuông. Áo cài khuy ở hai vạt trước, khuy áo là vỏ trai, có 5 - 6 khuy áo có 2 túi dưới để đựng vật dụng. Chất liệu may áo là vải gụ, vải nhuộm nâu, vải thô, vải diềm bâu để mặc lúc lao động. Áo cánh có loại dài tay, ngắn tay.

Ngoài áo cánh thường, nam giới Bình Lục còn có áo cánh mặc khi tiếp khách, đó là kiểu áo, có hai vạt trước thẳng, túi to, khuy cài to bằng đồng, vỏ trai, đôi khi trên ngực chái có thêm một túi nhỏ có nắp cài khuy.

- Áo dài

Áo thường được may bằng vải the hoặc lụa màu trắng, màu gụ, màu nâu hoặc đen, dài ngang bắp chân, cổ tròn, đệm thêm lớp vải hoặc the hình lá sen phía sát cổ để giữ cho cổ áo tròn trặn. Cổ áo được viền hơi cao, khoảng 2 - 3 phân. Áo có hai vạt trước, một vạt con bên phải. Khi cài khuy áo vắt vạt của áo sang một bên, cài từ trên cổ xuống dưới nách với 5 - 7 khuy tết bằng vải hoặc khuy bằng đồng.

- Áo lót, áo mặc trong

Có loại áo lót cộc tay, cổ vuông, có loại cổ tròn cả hai khi mặc đều phải chui cổ. Chất liệu may áo là vải sợi bông.

- Áo bông

Áo được may bằng cách may trần hình quả trám hoặc hình vuông có hai lớp vải trong ngoài bọc lớp bông ở giữa. Lớp vải trong chất lượng kém hơn lớp vải ngoài. Áo có hai loại: ngắn để mặc phủ bên ngoài áo cánh và áo dài xuống quá đầu gối để mặc mùa đông. Áo bông ngắn thường mặc cả khi lao động.

- Quần

Quần có hai loại: Quần dài và quần đùi.

Quần dài thường may bằng vải thô, vải diềm bâu, nhuộm màu nâu, hay gụ, cắt may theo kiểu chân què, hai ống rộng được mặc thường ngày. Quần mặc trong những dịp lễ tết, khi đi chơi, thăm viếng, tiếp khách … may bằng lĩnh, sồi, đũi, mặc với áo cánh thường có màu trắng. Các cụ ông có thể mặc quần lụa điều cùng với áo dài đỏ trong các dịp trang trọng.

Quần thường không có túi, cạp quần rộng khi mặc vấn lại buộc ra phía trước bụng, thả xòe ra gọi là “buông lá tọa”.

Quần đùi mặc bên trong quần dài, may bằng loại vải nhẹ, mềm, có cạp để luồn dải rút.

- Khăn chít đầu

Khăn chít đầu thông thường may bằng vải thâm hoặc đen, là mảnh vải hẹp về chiều ngang và dài được may xếp nếp. Khi chít đầu thì quấn bốn, năm vòng hai đầu khăn chít lại kiểu chữ nhật hoặc chữ nhân, trong đó có một vòng khăn được quấn thõng xuống phía sau bọc lấy búi tóc. Đây là kiểu chít khăn hình lưỡi rìu.

Khăn xếp may bằng các loại nhiễu, lượt, láng có màu đen, may xếp nếp nhiều vòng thành vòng tròn cứng. Khi đội đặt khăn lên chỏm đầu rồi ấn xuống cho khít, để hở chỏm. Khăn xếp dùng phổ biến với người trung lưu.

- Nón

Có nhiều loại như nón lá, nón sơn, nón chóp được làm từ những vật liệu giống nón nữ giới, nhưng nón nam giới hẹp vành hơn.

- Guốc, dép

Guốc được đẽo gọt từ gộc tre, từ gỗ, có quai đóng đinh hai bên xỏ chân.

Dép có dép cói, dép da 1 quai, 2 quai ngang hoặc 2 quai chéo, có loại 4 quai gồm 2 quai trước và 2 quai sau.

b) Trang phục của nữ giới

- Áo cánh

Áo cánh của phụ nữ Bình Lục xưa ngắn và có chiết ly bó sát người, hai ống tay áo bó sát cánh tay. Áo có cấu tạo hai vạt áo trước, đằng sau lưng ghép hai mảnh bằng đường sống lưng may đè, xẻ nách, cài cúc phía trước với 4 hoặc 5 cúc bằng vỏ trai, cúc bấm. Cổ áo được khoét tròn, ôm sát lấy cổ, phổ biến là các kiểu cổ tròn, cánh sen, cổ thìa hoặc cổ đứng. Cổ áo có viền khoảng 2 - 3 phân. Gấu tay và gấu áo cũng được viền. Áo có 2 túi nhỏ ở hai vạt (phía dưới).

- Áo dài

Loại áo này may bằng vải hoặc tơ lụa có nhiều màu sắc khác nhau, mặc ngoài áo cánh.

Áo dài tứ thân gồm hai vạt dài ở đằng trước, một vạt con bên phải, một vạt dài đằng sau có đường may ở sống lưng gọi là sống áo. Áo có cổ viền cao, độ dài của áo xuống quá bắp chân dưới đầu gối. Áo không cài khuy, về sau mới bổ sung thêm nhiều khuy cài từ cổ xuống tận eo hông. Khuy cài được tết bằng vải, và khi khuy bấm xuất hiện thì dùng khuy bấm hoặc móc đồng móc sắt. Người khá giả thường mặc áo này, còn dân lao động chỉ mặc vào các dịp cưới xin, lễ tết, hội hè…

Ngoài áo tứ thân, còn có áo dài năm thân (thêm 1 vạt phía trước), áo mớ ba mớ bảy với nhiều màu sắc, đi với khăn vấn nhiễu điều và thắt lưng sồi hoặc đũi.

- Khăn

Gồm khăn vấn đầu, khăn vuông.

Khăn vấn đầu là mảnh vải dài bằng vải bông hoặc nhiễu, nhung, láng, rộng khoảng 20 phân, dài khoảng 60-70 phân. Mái tóc dài của người phụ nữ được rẽ ngôi lệch rồi được quấn gọn lại trong khăn vấn rồi vấn quanh đầu từ phải sang chái, đuôi tóc thò ra ngoài khăn vấn được nhét vào vòng khăn. Khăn vấn thường chủ yếu màu đen hoặc màu nâu, màu gụ.

Khăn vuông là chiếc khăn bằng vải hoặc nhung lụa, nhiễu mỗi chiều rộng khoảng 80cm. Khăn thường được gấp chéo lại thành hình tam giác hơi lệch giữa, khăn vuông đội trùm ngoài khăn vấn theo kiểu hình mỏ quạ. Khăn vuông dùng màu đen là chủ yếu.

- Yếm

Yếm được may cắt từ một vuông vải, dài và rộng khoảng 30 - 40 cm. Một góc trên của yếm được khoét tròn hoặc hình cánh nhạn, được đính thêm hai dải vải cùng màu dùng để buộc yếm quanh cổ. Ở hai bên góc dưới của yếm cũng đính hai dải vải nhỏ nhưng dài hơn để thắt yếm vòng qua lưng rồi buộc lại. Góc dưới cuối yếm được viền rồi thả cho buông xuống dưới chạm sát vào cạp váy hoặc được buộc gọn lại bằng dải thắt lưng ở phía dưới trước bụng.

Yếm là đồ lót, bên trong áo cánh vừa che phần trước ngực, vừa để trang sức thường có màu trắng hoặc các màu sắc khác.

- Thắt lưng, bao lưng

Thắt lưng của phụ nữ được may bằng vải sồi hoặc lụa tơ tằm, có thể là màu trắng, hoặc nhuộm điều, nhuộm màu hoa lý, dùng nửa khổ vải hoặc cả khổ vải (1 khổ là 40cm) có độ dài có thể quấn quanh thắt lưng một hoặc hai vòng rồi thắt lại, buông chùng thả hai đầu xuống phía trước bụng hoặc phía sau lưng.

Bao lưng cũng có chiều dài như thắt lưng, nhưng dùng cả khổ vải, khâu tròn hình ống lệch bằng cách vắt chéo dải vải, do vậy ở hai đầu bao là hai miệng bao hình chéo để đựng tiền và các vật dụng nhỏ khác, hai đầu bao các sợi vải được tết thành tua lòa xòa. Bao lưng còn có tên gọi khác là ruột tượng.

- Áo kép, áo bông

Áo kép là áo được may bằng hai lớp vải bằng các loại vải khác nhau, có loại ngắn tay có loại dài tay, thường được cắt may theo kiểu áo cánh có cài khuy ở hai vạt đằng trước.

Áo bông là áo may bằng vải nhung, lụa, gấm ở mặt ngoài, mặt trong lót vải, ở giữa lót bông và được trần những đường chỉ hình ô vuông hoặc hình quả trám. Áo thường có màu đen, nâu, gụ, may theo kiểu áo cánh, cổ viền 3 phân, cài khuy ở giữa hai vạt trước và xẻ tà.

- Váy

Váy thường được phụ nữ dùng để mặc ở phía dưới áo cánh, che kín từ eo lưng trở xuống hai chân. Váy có cạp rộng để được thắt chặt bằng thắt lưng hoặc bao lưng. Chiếc váy thông dụng của nữ giới ngày xưa may bằng vải diềm bâu hoặc nhuộm thâm hay đen bằng bùn non hoặc thuốc nhuộm.

Váy có loại ngắn hoặc dài sát đất. Váy ngắn dùng để mặc khi lao động và là váy của những người bình dân, chỉ dài từ eo lưng tới quá đầu gối hoặc nửa bắp chân. Khi đi làm hoặc lội nước váy được xắn cao ở cạp váy theo lối quai cồng. Váy dài là váy của con nhà khá giả, may bằng các loại vải tốt như tơ lụa, láng, đũi, sồi. Nếu nhà thường dân có điều kiện may sắm thì kiểu váy này cũng chỉ dùng trong các dịp cưới xin, lễ, tết, hội hè. Thường thì váy dài khi mặc phải dùng bao lưng. Màu chủ đạo của váy dài là màu đen.

- Nón

Chiếc nón xưa lợp bằng lá gồi chuốt cho mỏng phơi nắng và ép thẳng, sau đó khâu lại với nhau thành hình chóp với khung nan tre và lớp mo tre lót bên trong. Quai nón buộc vắt ngang lòng nón.

- Guốc

Guốc được dùng đi trong nhà, chất liệu bằng gỗ được đẽo gọt lấy hoặc do thợ chuyên môn đóng, có quai ngang bằng da để xỏ chân. Có guốc mộc, guốc sơn. Guốc của phụ nữ dáng thon hơn guốc của đàn ông.

- Đồ trang sức

Đồ trang sức đi kèm với trang phục làm tôn vẻ sang trọng chủ yếu là của nữ giới.

Nữ trang của các bà, các cô thôn quê Bình Lục xưa là khuyên (còn gọi là cúc, hoãn) đeo tai làm bằng vàng bạc, hình tròn. Ngoài khuyên còn có kiềng, nhẫn, khánh, xà tích cũng bằng vàng bạc. Tuy nhiên chỉ những người giàu có mới dùng đồ trang sức.

Trẻ con nhà khá giả mà hiếm hoi được đeo đồ trang sức: vòng cổ, vòng tay, vòng chân… bằng bạc.

4. Chuyển biến của trang phục

Trang phục của cư dân Bình Lục và người Việt nói chung đã có bước chuyển biến quan trọng kể từ khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây.

Đã xuất hiện những loại trang phục mới: Áo sơ mi, quần phăng, bộ com lê, caravát, dép, giày, mũ, ô, váy âu… một số trang phục truyền thống không còn giữ nguyên như cũ mà đã có sự cải tiến để phù hợp với thời đại (chẳng hạn như áo dài phụ nữ) một số mai một rồi mất hẳn như yếm, thắt lưng, bao lưng phụ nữ, khăn vấn, khăn vuông, áo bông, áo kép…

Khoảng vài ba chục năm trở lại đây trang phục có những thay đổi nhanh chóng trong chất liệu, may, màu sắc. Không chỉ có vải bông, tơ tằm mà nhiều chất liệu mới tạo nên trang phục của cư dân Bình Lục. Gần như không còn việc tự cắt may trong phạm vi gia đình mà là tại các hiệu may. Quần áo may sẵn rất phổ biến.

Trang phục đương thời của người Bình Lục phong phú về mẫu, mốt, đa dạng về màu sắc. Màu nâu, gụ, màu đen không còn là màu chủ đạo. Kèm theo đó là các cách nhuộm màu cổ truyền, làng nhuộm cổ truyền cũng không còn nữa.

Bên cạnh những cách ăn vận theo giới, lứa tuổi, ngày thường và lễ hội đã và ngày càng phổ biến lối mặc đồng phục như đồng phục học sinh.

IV. ẨM THỰC

Ẩm thực của người dân Bình Lục phong phú và đa dạng với cách chế biến, thưởng thức món ăn mang đặc trưng của vùng đồng chiêm trũng và phong tục tập quán của các làng xã.

Trong bữa ăn gạo đóng vai trò chủ đạo, nhất định phải có nước chấm, có khi thêm gia vị. Ẩm thực thường không đậm các vị cay, béo, ngọt, chủ yếu sử dụng các loại nước chấm: tương, mắm tép, mắm tôm, nhiều món rau, các loại thủy sản nước ngọt như tôm, cá, cua, trai, hến…

Phong cách ăn uống được coi trọng, từ việc sắp xếp vị trí ngồi trong bữa cơm hàng ngày đến việc sắp xếp mâm cỗ, chia phần trong các cỗ tiệc. Việc nấu nướng cũng rất cầu kỳ trong lựa chọn thực phẩm hay phối hợp gia vị.

1. Ăn

a) Bữa ăn

Bữa ăn của người nông dân Bình Lục trước kia không qui định giờ giấc nghiêm ngặt. Thường ăn hai bữa chính là bữa sáng và bữa trưa, bữa phụ là buổi tối. Mùa cày cấy, mùa gặt bữa ăn diễn ra từ lúc trưa sáng rõ mặt người. Bữa trưa ăn vào lúc trời nóng nhất, ruộng gần thì về nhà ăn, ruộng xa thì cơm nước được mang đến ăn tại chỗ, trên bờ ruộng hay dưới bóng cây giữa cánh đồng.

Nhà nghèo bữa ăn được dọn ra trên mâm gỗ, bát đĩa là đồ đàn với đũa tre. Khá giả dùng mâm thau bát đĩa sứ, đũa sơn. Cao sang thì mâm đồng bạch chạm trổ, đũa mun, đũa ngà, bát đĩa bịt đồng.

Thức ăn mùa nào thứ ấy. Rau muống luộc chấm tương, nước luộc rau vắt chanh để chan, bắp cải luộc chấm nước mắm dầm trứng; cà ghém chấm mắm tôm, cà dầm tương, canh rau ngót hoặc mùng tơi ăn với cà pháo, canh dưa chua, vừng, cua, ốc, tôm tép, cá kho, thịt rang mắm tép; đậu bí mướp luộc, nấu canh hoặc xào.

Bạn bè quen thuộc đến chơi hay có việc gặp bữa ăn là chủ mời ăn cùng chỉ là thêm bát thêm đũa.

Trong chế biến món ăn người Bình Lục cũng như các địa phương khác rất chú ý đến việc sử dụng phối hợp thực phẩm, gia vị chú ý đến sự kị nhau của chúng để món ăn tăng thêm sự ngon miệng, bảo đảm sức khỏe như thịt gà phải có lá chanh, thịt chó có riềng… Trong các món ăn bằng rau có loại cho mỡ vào xào nấu thì rất ngon nhưng có loại rau lại không được như rau đay, mùng tơi, rau dền. Đối với rau cần kị ninh nhừ, rau cải thì ngược lại, rau cần có thể ăn ghém. Kỵ trong nấu nướng còn có: nấu măng tươi với ớt, không vắt chanh vào tương, khoai sọ, khoai nước, khoai môn không sống và kị luộc dối, kị ăn chuối hột với đường mật…

b) Các món ăn

- Cơm là thức ăn chính của người Bình Lục và người Việt ở đồng bằng nói chung. Gạo vo sạch đổ vào nồi, lượng nước cho vào tùy theo từng loại gạo, đun cạn thì giảm lửa hoặc vùi xuống tro nóng cho chín hẳn. Dùng đũa cả đảo đều gọi là ghế cơm.

Có nhiều loại cơm:  Cơm gạo lức là gạo chỉ bỏ trấu, không bỏ cám. Cơm tấm là cơm gạo gãy. Cơm nguội, cơm rang (cơm nguội cho mỡ rang khô). Cơm nắm là cơm nóng dùng mo cau hay vải sạch bóp cơm cho nhuyễn rồi nắm lại từng nắm, cơm độn (gạo độn với ngô hoặc các loại củ có bột). Cơm nấu bằng gạo nếp gọi là cơm nếp. Phổ biến vẫn là cơm nóng nấu bằng các loại gạo thuần (cơm ri, cơm tám thơm…).

- Xôi: Xôi là đồ cúng tế cũng là quà ăn hàng ngày của người dân Bình Lục. Gạo nếp ngâm 4 - 8 giờ rồi cho vào chõ sành hoặc chõ nan tre đun cách thủy khoảng 2 - 3 giờ là chín gọi là đồ xôi. Lệ làng, khi đóng oản xôi để cúng thần hay đóng oản cúng Phật phải lựa giống nếp ngon, trắng tinh, vo kỹ. Xôi trắng ăn với thịt gà, thịt lợn luộc, giò, chả, ruốc, muối vừng. Xôi xéo, xôi hoa cau là gạo nếp đồ lẫn đỗ xanh, đỗ đen, xôi vò cũng có đỗ xanh nhưng làm cầu kỳ được coi là quý nhất trong các thứ xôi. Xôi đỗ đen không dùng để cúng tế. Xôi gấc màu đỏ thường dùng trong lễ cưới hỏi, mừng thọ, cúng giao thừa. Ngoài ra còn có xôi sắn, xôi ngô, xôi lạc…

- Cháo: Là món ăn dễ nấu nhất. Cho một ít gạo tẻ lẫn nếp vào nồi nước đun kỹ cho nhừ tơi, sánh lại thành cháo hoa. Có nhiều loại cháo nấu với các sản phẩm từ động vật hay với các loại ngũ cốc, cháo thịt lợn, cháo bò, cháo lòng, cháo lươn, cháo cá, cháo vịt, cháo bồ dục, cháo tim gan, cháo tiết, cháo trứng, cháo kê, cháo ngô, cháo bột lọc, cháo đậu xanh, cháo đậu đen.

Nếu chia theo cách nấu nướng, thực đơn của người Bình Lục xưa nay cũng rất đa dạng, tựu trung có hai loại: Món ăn chế biến qua lửa và món ăn chế biến không qua lửa. Đi vào chi tiết có 13 món: Xào, hấp, luộc, nướng, quay, rán chiên, rang, om/ kho/ rim, chần, Ninh/ hầm, trộn (nguyên liệu đã được làm chín hay nguyên liệu có thể ăn sống), áp chảo, muối chua.

Ngày nay trên địa bàn huyện Bình Lục danh sách các món ăn rất phong phú, có thể kể tên các món: Bún, bánh đa (nấu, nướng) đậu phụ chấm mắm tôm, bánh cuốn ăn với giò chả, lẩu, chả, dồi, dưa muối, lòng non, rau muống xào tỏi, riêu, ruốc, thịt kho, oản (xôi cúng), xôi trắng, xôi vò, cháo đậu phụ, giò, chả, nem chua, nem rán, nem cuốn, bánh chưng, bánh dày, bánh giò, bánh mỳ, bánh gai, bánh nướng, bánh dẻo…

- Một số món ăn theo phong tục: Các món để thờ cúng, ở đình, đền, miếu dùng cả món mặn và chay, ở chùa chỉ dùng món chay (xôi, oản) và hoa quả. Cỗ khao, cỗ cưới làm đủ món (4 đĩa, 4 bát) gồm giò, nem, ninh mọc… rồi bánh, chè, xôi, phần biếu… Cỗ đám tang, đám giỗ to hay nhỏ tùy theo hoàn cảnh kinh tế từng gia đình.

- Ăn trầu và hoa quả.

Từ thời cổ người Việt đã có tục ăn trầu trong sinh hoạt hàng ngày nhất là trong các dịp như tiếp khách, giỗ chạp, cưới xin, ma chay, hội hè, khao vọng và cả trong lúc làm việc, khi chuyện trò sau bữa cơm.

Người Bình Lục từ lâu cũng phổ biến tục ăn trầu, nhưng ngày nay việc ăn trầu thường ngày đã ít hẳn chỉ còn ở một số cụ bà ở một số địa phương trong huyện.

Miếng trầu gồm có: một miếng cau (bổ tư) hoặc bổ sáu, một miếng lá trầu không, vôi quệt vừa phải và một miếng nhỏ vỏ chay, có khi còn thêm ít thuốc lào để tăng độ say của trầu.

Các loại hoa quả của Bình Lục khá phong phú như bưởi, cam, chanh, quýt, dưa chuột, dưa gang, táo, nhãn, mận, na, ổi, mít, nhất là chuối… Người Bình Lục ăn hoa quả trong các trường hợp: ăn bất cứ lúc nào, tráng miệng sau bữa ăn, thụ lộc sau lễ cúng.

2. Uống

a) Uống nước

Nước vối là thứ nước uống phổ biến ở Bình Lục, nhất là trước đây. Lá vối bẻ cả cành, vẩy nước, ủ 4 - 5 ngày bằng lá nhãn cho lá vối đen lại rồi đem phơi khô cho khỏi ngái và giữ được lâu. Bỏ một nắm vào ấm (ấm đất, ấm nhôm) đun sôi, để nguội uống cả ngày. Vị nước vối hơi đắng lại ngòn ngọt. Nụ vối cũng phải ủ như lá vối, phơi khô cũng là đồ uống thú vị.

Nước chè khô cũng rất phổ biến với người dân Bình Lục, chè được pha trong chuyên sành, hoặc sứ. Các nhà nho hay người sành uống trà cầu kỳ trong việc pha trà uống trà.

Ngày xưa nhiều nơi ở Bình Lục dù có các thứ nước chè, nước vối nhưng nhiều người lại chỉ thích uống nước lã là nước mưa được hứng từ ngọn cây cau, hoặc mái ngói chứa vào chum, vại sành, bể xây bằng gạch. Người ta lấy thân cây cau bổ dọc, khoét làm máng hứng nước mưa từ mái ngói hoặc bắc cuống tàu lá cau vào miệng để hứng. Nước mưa đun sôi pha trà ngon hơn nước giếng. Nước lã đun sôi để nguội cũng là thứ nước uống thường dùng.

Ngày nay nước chè khô, nước vối khá phổ biến ở các quán nước. Mùa hè còn có trà đá, nước vối đá. Đồng thời nhiều loại nước uống công nghiệp: nước có ga, nước khoáng, sữa do trong nước và nước ngoài sản xuất phổ biến đối với người Bình Lục.

b) Uống rượu

Từ xa xưa nhiều nơi ở huyện Bình Lục biết nấu rượu để uống và để bán. Rượu được nấu bằng gạo tẻ, gạo nếp (ít hơn). Thời Pháp thuộc, ai nấu rượu phải khai trình và nộp thuế mỗi chai một xu.

Loại rượu khi rót ra chén, sủi tăm đậu lại trên thành chén, không tan gọi là rượu tăm, nặng chừng 400 uống vừa êm, vừa ngọt ngọt ở cổ. Loại rượu rót nổi tăm nhưng chóng tan gọi là rượu tắt không ngon bằng rượu tăm. Kém nữa là rượu thào không nổi tăm. Rượu trắng không pha chế còn gọi là rượu ngang, rượu cuốc lủi. Rượu ngâm với các vị thuốc Bắc gọi là rượu thuốc uống vừa bổ, vừa chữa bệnh đau nhức xương, tê thấp. Rượu kết hợp với các loại quả thì gọi theo tên quả: rượu mơ, rượu mận, rượu táo…

Không một cuộc vui, một lễ nghi nào lại có thể thiếu rượu.

Ngày nay có thêm nhiều loại rượu công nghiệp có nguồn gốc trong nước và nước ngoài. Rượu nếp cái hoa vàng của Bình Lục một thời được bán nhiều ở nước ngoài.

3. Hút thuốc

a) Thuốc lào

Có các loại điếu dùng để hút thuốc lào như sau:

- Điếu cày để hút là vật thông dụng của những người bình dân Bình Lục. Người thợ cày sáng sớm ra đồng mang theo điếu cùng cái nùn rơm mồi lửa. Dù cũng dùng được để hút ở nhà người ta vẫn quen gọi là điếu cày. Điếu làm bằng ống nứa hoặc ống tre thông ruột bên trong, gần cuối ống khoét lỗ để tra nõ (gỗ hoặc kim loại). Đổ nước vào trong ống sao cho vừa, không tràn ra nõ, cũng không ít quá. Hút thuốc thường châm lửa bằng đóm, ngày nay thường châm bật lửa ga.

- Điếu bát dùng ở nhà, làm bằng sành, sứ, dáng cổ bồng chính giữa miệng điếu có lỗ tron để tra nõ. Nõ điếu thường bằng đồng. Bát điếu dùng để đựng điếu, hứng đựng sái thuốc. Xe điếu nhỏ làm bằng trúc hoặc đồng dài ngắn khác nhau có loại điếu cong và hơi quặp xuống ở đầu hút. Nước trong điếu vừa phải không sát nõ điếu. Dùng xe điếu lại phải có dụng cụ thông và dài hơn nõ điếu.

Có khi không sẵn có điếu thì quấn lá chuối, dùng tàu chuối, giấy cuộn hình sâu kèn làm điếu.

Thuốc lào đậm, say trong chốc lát, nhiều người sinh nghiện, khó cai “Nhớ ai như nhớ thuốc lào/ Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên”.

b) Thuốc lá

Người Bình Lục cũng như người Việt nói chung biết hút thuốc lá từ khi tiếp xúc với người Pháp sang xâm chiếm nước ta. Thuốc lá được người Pháp sản xuất rồi xuất sang Việt Nam có các loại như Baxtô, Craven, captan… sau khi hòa bình lập lại trên miền Bắc người Bình Lục tiếp xúc và dùng các loại thuốc lá trong nước sản xuất như Trường Sơn, SaPa, Điện Biên, sông Cầu, Tam Thanh, Tam Đảo. Bây giờ phổ biến là thuốc lá có đầu lọc như: Thăng Long, Vinataba. Thuốc lá ngoại vào Việt Nam có các loại Duhin, Ba số (555), Roman, Môrô…

4. Đặc sản ẩm thực

Người Bình Lục có tài nấu nướng, chế biến thực phẩm để làm nên nhiều món ăn ngon bổ, đặc biệt là trong dịp Tết nguyên đán cổ truyền, lễ cưới, đãi khách… mỗi địa phương có sở trường về một vài món. Nhưng nổi bật được xa gần thừa nhận, đặc sản ẩm thực Bình Lục nổi tiếng từ xưa là rượu Vọc và bánh đa nướng làng Dằm.

a) Rượu Vọc

Tương truyền rượu Vọc (tên nôm của làng Thành Thị) xã Vũ Bản đã có từ thế kỷ XIII, do dân làng nấu, được coi là rượu quý, dùng để “Tiến Vua”.

Rượu Vọc có hương vị độc đáo, được chia thành hai loại. Loại một là đặc sản truyền thống có nồng độ cồn 45 - 47 độ. Nấu rượu phải qua 11 bước, trong đó quan trọng nhất là khâu làm men. Chỉ số ít gia đình làm được loại men thơm, ngon luôn giữ được hương vị đặc trưng cho rượu.

Từ bao đời, người làng Vọc giữ bí quyết chưng cất rượu. Rượu được nấu bằng gạo đặc sản ủ với men ta gồm 36 vị thuốc. Các công đoạn nấu rượu rất công phu. Bắt đầu là ủ men từ hai đến ba ngày, tùy theo nhiệt độ thời tiết, chờ khi men “dậy” mới được mở. Gạo trước khi nấu phải được “Trình cối” hoặc được sát chuội, cơm rượu nấu chín vừa, không được khô, đánh tơi để nguội trước khi rắc men. Sau đó cho vào hũ ủ. Chờ khoảng hai ngày, khi mọng mới được đổ nước, sau hai đêm nữa là có thể mang ra nấu. Nồi nấu gồm có nồi đồng vấu tầu, máng gỗ, vòi tre.

Công phu hơn, rượu sau khi nấu cho vào hũ sành ngâm dưới ao khoảng 3 năm, có bèo sen bao bọc thì rượu càng ngọt, thơm dịu. Rượu Vọc chưng cất bằng nguồn nước của làng thì mới ngon.

Hiện nay, rượu Vọc đã trở thành một thương hiệu nổi tiếng trong và ngoài tỉnh kể cả ở nước ngoài.

b) Bánh đa Dằm

Đó là tên loại bánh đa được làm ra ở làng Dằm (nay thuộc thôn Tiêu Hạ, mới chia thành hai thôn Tiêu Hạ Bắc, Tiêu Hạ Nam) xã Tiêu Động. Bánh đá Dằm đường kính khoảng 30cm, tương ứng với đường kính nồi hơi dùng để tráng bánh.

Người dân làng Dằm làm bánh đa quanh năm, đặc biệt nhộn nhịp những lúc nông nhàn.

Nguyên liệu chính để làm bánh đa là loại gạo ngon, trắng được ngâm nước để hạt gạo căng mọng rồi xay thành bột mịn trắng muốt.

Tráng bánh đa có nhiều nét tương đồng với tráng bánh cuốn nhưng đòi hỏi sự khéo léo và kỹ thuật hơn. Bánh được tráng hai lần vì đòi hỏi độ dày để nướng, sau khi lớp tráng đầu chín nhưng vẫn còn ướt thì tráng lớp thứ hai trải đều trên lớp đầu, nhẹ tay đảm bảo đều và phẳng.

Thợ tráng bánh có kinh nghiệm những chiếc bánh đều chằn chặn cả về kích thước lẫn độ dày. Họ khéo léo khi lấy ra khỏi tấm vải bịt trên nồi hơi lớp bột tráng đã chín quấn quanh một ống nứa to và dài rồi trải đều ra trên phên mà bánh vẫn không hề bị rách hay méo mó.

Điểm đặc biệt ở bánh đa Dằm là lớp vừng ở bên trên, là vừng sống. Trước khi đem bánh ra phơi, người làng Dằm rắc một lượt vừng lên mặt bánh còn bốc hơi nóng hổi. Không phải rắc tùy tiện, vừng rắc phải đảm bảo trải đều trên mặt bánh nhưng dày hơn ở tâm bánh để khi nướng vừa chín tới và vừa mắt người nhìn.

Khi phơi, bánh đa được đặt lên trên những tấm phên đan bằng nứa. Phên phải phẳng phiu mặt phên lớn hơn bánh đa khi mang từ khuôn ra. Khi bánh se mặt và vẫn còn dẻo thì gỡ bánh tránh cho bánh dính vào khuôn bị vỡ hoặc thủng, rồi mới lật bánh sang mặt bên kia và phơi tiếp cho đến khô. Bánh đã khô được bảo quản cẩn thận, ngày xưa để bánh vào nơi thoáng mát, cao ráo để tránh ẩm, nay thường xếp bánh vào túi ni lông buộc chặt.

Trước khi bánh đa Dằm đến với người tiêu dùng còn phải qua khâu nướng bánh. Người ta đốt những viên than củi lên, khi những viên than đã bén lửa thì đặt bánh đa lên trên chậu than hồng. Một tay cầm bánh đa, một tay cầm quạt nan phải quạt đều tay, liên tục, chiếc bánh đa được lật qua lật lại. Thi thoảng họ dừng lại uốn chiếc bánh cho khỏi bị vênh. Thường người nướng bánh là các bà các chị với đôi tay nhanh nhẹn, linh hoạt và xử lý một cách kỹ thuật. Nướng bánh đa phải chú ý quan sát, biết đặt chỗ nào lên trên chậu than hồng, chỗ nào được và chưa được. Người nướng bánh phải biết dừng lại kịp thời, đưa bánh ra ngay nếu không rất dễ bị cháy.

Bánh đa Dằm khi ăn có vị bùi, ngậy, thơm và giòn tan, từ lâu đã được thị trường ưa chuộng và trở thành đặc sản của xã Tiêu Động, huyện Bình Lục kể cả của tỉnh Hà Nam (cùng với bánh đa Kiện Khê).

5. Biến đổi trong văn hóa ẩm thực

Trong vài thập niên gần đây cũng như nhiều tỉnh thành của đồng bằng sông Hồng và các huyện, thành phố của tỉnh Hà Nam, người dân Bình Lục đã có những thay đổi so với tập quán ăn uống cổ truyền.

Nguồn lương thực, thực phẩm ngày càng dồi dào phong phú hơn. Sản lượng lương thực qui ra thóc đủ bảo đảm an toàn lương thực, có dự trữ cho chăn nuôi. Người Bình Lục nay ăn toàn cơm trắng không có gia đình nào đói. Bữa cơm ăn độn ngô, khoai lang, khoai nước hầu như không còn.

Các sản phẩm của thịt, sữa, trứng đã tham gia ngày một nhiều trong cơ cấu bữa ăn. Nhiều thực phẩm có nguồn gốc động vật trước kia được coi là quý hiếm thường chỉ dùng trong các dịp lễ tết, thường được chế biến thành thức ăn mặn để ăn dè trong bữa ăn thường ngày nay đã trở nên thông dụng trong các bữa ăn.

Những phụ gia mới xuất hiện trong cách thức chế biến thức ăn như mỳ chính, bột ngọt, nước chấm công nghiệp, dầu thực vật, sa tế…

Nhiều chất liệu mới, dụng cụ chế biến thức ăn đã đan xen hoặc thay thế dụng cụ và chất liệu cũ… Trong nông thôn đồ đun bằng rơm rạ ít dần, thay thế bằng than (than tổ ong) theo đó xuất hiện kiểu bếp lò. Hầu như không còn mâm gỗ, mâm tre, muôi, thìa bằng gáo dừa trong các gia đình, thay vào đó là các loại mâm, muôi, thìa nhôm hay inốc. Đồ nhựa, đồ nhôm thay thế rổ, rá đan bằng tre. Không ít gia đình có bộ bàn ghế ăn riêng, phòng ăn riêng.

Tục uống nước lã, nước mưa đã mất đi. Nhiều xã đã có nước máy. Nước nhân trần tham gia vào cơ cấu nước uống cùng với chè khô (phổ biến) nước vối, nước hoa hòe, nước chè khô ướp sen.

Rượu thủ công vẫn được sử dụng nhiều nhưng bia hơi, bia chai các loại, rượu ngoại dần dần phổ biến trong sinh hoạt, quán xá nhất là của thanh niên, trung niên.

Trầu cau vẫn không thể thiếu trong các dịp lễ tết, hội hè, giỗ chạp, cưới xin, tang ma của cư dân Bình Lục. Nhưng trong sinh hoạt thường ngày ăn trầu gần như không còn. Điếu cày, điếu bát vẫn có ở các thôn xóm vẫn còn người hút nhưng thuốc lá các loại, nhất là thuốc lá rẻ tiền như Thăng Long thông dụng hơn.

Gia đình biến đổi vị thế người phụ nữ được đề cao hơn, trong bữa ăn sự phân biệt mâm trên, mâm dưới đã giảm nhiều và không còn trong các gia đình trẻ.

V. NHÀ Ở

1. Nhà ở trong các giai đoạn lịch sử

Nhà ở dân gian của huyện Bình Lục không khác biệt lắm với nhà ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng sông Hồng. Vì thế cần đặt sự biến đổi của không gian kiến trúc nhà ở của huyện trong quá trình biến đổi của cả vùng trong lịch sử.

Có thể chia quá trình thành các giai đoạn sau:

a) Giai đoạn xã hội nguyên thủy

Căn cứ vào hình ảnh còn lưu lại trên mặt trống đồng Ngọc Lũ I cho thấy nhà ở của xã hội nguyên thủy có 2 loại hình kiến trúc là nhà sàn mái cong hình thuyền và nhà sàn mái cong hình tròn.

Nhà sàn có mái cong hình thuyền, hai đầu mái có hoa văn trang trí có hai cột chống, ở giữa có bố trí thang để lên sàn.

Nhà sàn mái tròn có một cửa ở giữa, hai bên có phên chắn trang trí, hai nóc mái cong trang trí hai hình tròn khác nhau, có hai cột chống ở hai đầu ngôi nhà. Nhà mái tròn có thể sử dụng cho sinh hoạt tín ngưỡng cộng đồng. Như vậy một thời gian rất dài nhà ở dân gian của người Việt cổ chủ yếu là nhà sàn tựa trên cột, đây là loại nhà phù hợp với môi trường tự nhiên vùng châu thổ.

b) Giai đoạn xã hội phong kiến và thời Pháp thuộc trước 1954

Nhà ở vùng đồng bằng sông Hồng nói chung và ở Bình Lục nói riêng đã biến đổi hoàn toàn. Nhà sàn không còn, xuất hiện nhà đất với không gian cư trú mới. Nhà ở dân gian giai đoạn này được phân ra làm hai nhóm: Nhóm nhà ở của tầng lớp trung lưu, giàu có như quan lại, địa chủ và nhóm nhà ở của dân nghèo.

Nhà ở của người nghèo chủ yếu sử dụng vật liệu tre, nứa, rạ để làm nhà dạng nhà lều, khuôn viên có diện tích đất nhỏ dưới một sào. Nhìn chung nhà ở người nghèo có hình thức và công năng đơn giản không có nhiều giá trị về kiến trúc.

Nhà ở dành cho giới trung lưu thường có khuôn viên sân vườn rộng hàng mẫu đất (1 mẫu = 3600m2) xung quanh có hàng rào, cổng xây bằng gạch đất nung, có mái lợp ngói, hàng rào trồng cây dâm bụt, cây chè mạn, đan xen là cây lấy gỗ, cổng ra vào trồng cây vòm xén tỉa hoặc là cổng xây có lắp cửa. Bên trong khuôn viên từ cổng vào ở hướng Nam có vườn trồng cau, ao rộng nuôi cá. Sân lát gạch, sau nhà chính là vườn chuối, cây ăn quả và cây lấy gỗ kết hợp với chuồng trại chăn nuôi nhà vệ sinh. Hai bên nhà chính là các nhà phụ, giếng nước và vườn rau. Ngôi nhà thường bố trí ở giữa khu đất, tổ hợp giữa nhà chính và nhà phụ thông thường theo 4 hình thức bố cục: Hình chữ nhật, hình thước thợ, hình chữ đinh và hình chữ môn.

Thời kỳ người Pháp xâm chiếm và đặt ách thống trị lên nước ta từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX, không gian nhà ở của người dân Bình Lục nhìn chung không biến đổi lớn. Song hình thức kiến trúc và vật liệu đã có sự thay đổi. Về hình thức kiến trúc, do quan chức nghỉ hưu và người giàu đã sử dụng mẫu kiến trúc Pháp để xây dựng. Khuôn viên ngôi nhà đã bỏ bớt một số hạng mục như nhà chăn nuôi, nhà vệ sinh đưa gần vào không gian ở, bổ sung thêm sân chơi, đường dạo. Ngoài ra còn có kiểu kiến trúc lai tạp “nửa tây, nửa ta”. Về vật liệu đã có bê tông cốt thép và các trang thiết bị nội thất hiện đại.

Xuất hiện nhà ở truyền thống kết hợp với hiên mái bằng, lan can hiên có đắp phào hoặc hoa văn bê tông, vì kèo có sự thay đổi, chỉ có 2 cột, phần còn lại tựa trên tường xây chịu lực, mái nhà lợp ngói. Cửa ra vào không sử dụng cửa bức bàn truyền thống mà cánh cửa treo lên khuôn gỗ hoặc tường chịu lực.

c) Giai đoạn hợp tác xã nông nghiệp từ 1954 - 1985

Nhà ở trên địa bàn Bình Lục giống như các địa phương khác đã biến đổi thêm một bước trong kết cấu và vật liệu. Những ngôi nhà tranh tre nứa lá dần được thay thế bằng các ngôi nhà tường xây gạch, mái lợp ngói.

Khuôn viên cũng như không gian nhà ở bị co hẹp lại.

Kết cấu vẫn sử dụng bộ vì gỗ nhưng đơn giản hơn, bộ vì kèo không còn cột mà tựa trực tiếp lên tường gạch chịu lực, cột hiên cũng xây bằng gạch, nhờ có vật liệu bê tông cốt thép nên nhà ở kiểu hiên Tây đã thịnh hành, ba gian giữa và gian buồng làm phòng ngủ đổ mái bằng nhô ra ngoài tạo thành hiên cụt.

d) giai đoạn từ năm 1986 đến nay

Đây là giai đoạn xóa bỏ nền kinh tế quan liêu bao cấp, xã hội, kinh tế có nhiều thay đổi, nhà ở cũng vậy, chịu áp lực từ việc dân số tăng, nhu cầu tách hộ từ gia đình đa thế hệ thành gia đình hạt nhân. Cũng như các huyện các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng có hai hướng phát triển không gian nhà ở nông thôn.

Hướng thứ nhất, người có điều kiện kinh tế cố gắng giữ gìn không gian nhà ở nhằm mục đích thờ cúng tổ tiên, một số xây dựng nhà vườn nghỉ ngơi. Hướng thứ hai, không gian kiến trúc biến đổi sang gia đình nhỏ với khuôn viên khu đất ở ngày càng thu hẹp so với trước đây. Việc chia lô làm nhà ở tại nông thôn Bình Lục đang là trào lưu và xuất hiện các dãy nhà phố làng. Những biến đổi được ghi nhận là nhà ở nông thôn và nhà ở thị trấn ngày càng gần gũi nhau.

Về không gian khuôn viên nhà ở, không còn mặt nước, sân vườn nếu có thì diện tích cũng rất nhỏ, không còn không gian bốn phía, hình thái ngôi nhà phổ biến hình chữ nhất theo phương dọc.

Về công năng đã bỏ bớt một số chức năng không phù hợp và sắp xếp theo phương dọc thay cho phương ngang như trước đây. Cách bố trí như sau: Đầu tiên là phòng khách, tiếp đến là các phòng ngủ, phòng bếp nấu, phòng ăn và khu vệ sinh. Nếu nhà 2 tầng thì tầng 2 bố trí các phòng ngủ và phòng thờ cúng.

Kết cấu, phương thức xây dựng: Kết cấu chủ yếu khung bê tông cốt thép, vật liệu dùng gạch, bê tông, thép, nhôm, kính, tôn, phương thức xây dựng bán cơ giới và thi công tại chỗ khác với nhà ở truyền thống dùng mộng nên có thể tháo lắp được và thi công hoàn toàn bằng thủ công.

2. Khuôn viên nhà ở

Dưới đây đề cập đến khuôn viên nhà ở thuộc tầng lớp trung lưu, giàu có ở nông thôn Bình Lục xưa.

Các thành phần chính trong khuôn viên gồm:

- Nhà chính để ở kết hợp với thờ cúng.

- Nhà phụ để ở hoặc sản xuất, làm bếp, nhà kho.

- Hàng rào.

- Cổng.

- Sân.

- Vườn

- Bình phong, cây hương ngoài trời, am thờ Phật.

- Giếng

- Bể chứa nước

- Ao

- Nhà vệ sinh

- Khu tắm

- Chuồng chăn nuôi.

Đi vào cụ thể giữa các nhà có sự khác nhau chẳng hạn thay đổi ở một số thành phần như bình phong, cây hương ngoài trời, giếng… có gia đình không có.

Nhìn chung bố cục không gian nhà dàn trải cách biệt nhau tạo sự thông thoáng. Ao và vườn điều hòa vì khí hậu cho không gian khuôn viên.

- Nhà chính là một nếp nhà riêng nên hình khối và quy mô lớn nhất. Hình thức, kết cấu, trang trí được đặc biệt chú trọng (sẽ đề cập sau).

- Nhà phụ được kết hợp với một hoặc vài nếp nhà, mỗi nhà có chức năng riêng. Những chức năng được kết hợp với nhau trong một nếp như: Nhà phụ để ở và sản xuất làm nhà bếp, nhà kho, chuồng chăn nuôi, vệ sinh. Nhà phụ có hình thức kiến trúc và kết cấu thường đơn giản. Nhà kết cấu gỗ theo kiểu quá giang hoặc nhà tre có quá giang gác lên tường.

- Sân: Hình chữ nhật hoặc hình vuông, to hay nhỏ phụ thuộc qui mô công trình nhà ở, nằm trước nhà, một chiều chạy dọc theo nhà chính, một chiều chạy hết nhà phụ. Sân là nơi phơi phóng lương thực hoa màu, làm nghề phụ, chỗ chơi cho trẻ em, nơi tổ chức đám cưới, đám tang hay việc khác.

- Vườn: Chiếm diện tích phần lớn khuôn viên, có vườn rau và vườn trồng cây ăn quả, hoặc kết hợp.

- Ao: Nhà khuôn viên rộng thường có ao trước hoặc bên cạnh nhà chính, nhà khuôn viên nhỏ hẹp không có ao. Ao ở trước nhà hứng được nhiều gió mát thổi vào nhà đồng thời có cầu để giặt giũ quần áo, thả cá để cải thiện bữa ăn.

- Cổng: Được bố trí theo hai cách tùy mỗi nhà, phía trước nhà chính hay lệch so với nhà chính. Nhà giàu cổng bằng gạch gỗ trên có lợp mái ngói ta dốc vào trong, có lắp cánh cổng. Nhà nghèo thì cổng tre, liếp hoặc chỉ là lối vào, không có trụ hoặc cánh cổng.

- Hàng rào: Mỗi nhà đều có hàng rào ngăn cách với nhà hàng xóm. Có hai loại: loại kiên cố xây tường gạch, loại bằng cây râm bụt, chè mạn được trồng.

- Giếng đào, bể chứa nước mưa: Chủ yếu là loại giếng đào truyền thống tồn tại nhiều đời. Cũng nhiều nơi dân sử dụng giếng chung của làng gánh nước về dùng đổ vào bể, nhà không đào giếng riêng.

- Bình phong, cây hương, am thờ Phật: đặt ngoài trời trước nhà chính. Bình phong đặt chắn gian giữa nhà chính theo thuyết phong thủy. Am thờ Phật đặt trước sân lệch với gian giữa nhà chính.

- Khu tắm, vệ sinh: Chỗ tắm được bố trí cạnh giếng (nếu nhà có giếng) hoặc ở cạnh nhà, ở góc khuôn viên. Cũng có nhà bố trí cạnh khu chăn nuôi hoặc tách riêng khỏi góc vườn.

Nhà vệ sinh làm xa nhà chính thường ở sau vườn kết cấu nhà đơn giản.

3. Kiểu nhà ở

a) Nhà tranh

Gọi là nhà tranh vì mái nhà được lợp bằng tranh, tranh được đánh bằng lá mía hoặc bằng rạ.

Nhà tranh có hai loại: một gian hai chái và ba gian hai chái của những gia đình nghèo.

Bình Lục là vùng đồng chiêm trũng “gạo trắng, nước trong”, “Sống ngâm da, chết ngâm xương”, rốn nước ở đồng bằng châu Thổ, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn nên xưa kia nhà tranh khá nhiều.

Nguyên vật liệu làm nhà tranh là tre ngâm, xoan ngâm, kết cấu của nhà một gian hai chái gồm 2 vì kèo chính, 2 vì kèo phụ, nối giữa chúng là một cây nóc ở trên, 2 cây suốt ở 2 bên chái và 2 cây suốt nữa ở trước và sau nhà. Cột cắm xuống nền đất, chân cột bôi chất chống ẩm hoặc được chèn chặt bằng gạch vụn. Có hai cột chính ở trước để làm khung cửa. Rồi lại có các cột phụ xung quanh nhà, khoảng 80 - 100cm dựng 1 cột. Ở giữa 2 cột lại đục lỗ để lắp then ngang.

Xong khung nhà đến làm mái, việc đầu tiên là đặt cây nóc phải chọn ngày tốt giờ tốt. Kết cấu nóc gồm đòn tay, đòn tay đặt từ nóc xuống dưới. Số đòn tay có thể là 9 hoặc 19. Dưới mỗi đòn tay lại đục một lỗ vuông rồi đóng một chốt bằng gốc tre đực cho đòn tay khỏi trôi, níu đòn tay vào kèo bằng dây mây hoặc lạt bện. Đến buộc rui, vuông góc với đòn tay. Xong rui đến mè, buộc suốt, song song với đòn tay. Mè phải tính sao cho khớp với đầu hàng tranh hoặc đầu hàng rạ lợp.

Buộc xong mè đến lợp mái. Có hai loại vật liệu dùng để lợp: lá mía và rạ. Đối với rạ có hai kiểu: Lợp rạ buông và lợp rạ đã được đánh gianh, lợp lá mía chỉ có kiểu đánh thành gianh. Khi lợp thì lợp từ dưới lên, lùi dần lên nóc.

Vách nhà làm bằng những thanh tre, trát vách bằng bùn nhào với rơm qua các lỗ nhưng vuốt xuôi cho phẳng. Cửa giữa nhà thường là tấm phên hoặc có cánh cửa bằng gỗ tạp, kiểu trong then, ngoài khóa. Phần vách không trát để lại một số ô làm cửa sổ.

Nhà 3 gian 2 chái cách làm tương tự như nhà một gian hai chái, chỉ thêm hai vì kèo nữa ở gian chính. Đây là kiểu nhà thường khi gia đình đã có thêm nhân khẩu, như có con nhỏ, có thể có cả ông bà cùng ở.

b) Nhà ngói

Dưới đây giới thiệu tương đối chi tiết về ngôi nhà chính điển hình, kiểu thiết kế 3 gian 2 chái (thường gọi là nhà 5 gian).

- Hướng nhà: Rất được coi trọng, có câu “Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng nam”. Hướng nam là hướng phổ biến, là hướng mát mẻ, sáng sủa, tránh ánh nắng mặt trời rọi trực tiếp vào nhà. Tuy nhiên cũng có nhà hướng chính nam nhưng hơi chếch đông hoặc tây, thậm chí có cả hướng tây, tây nam.

- Tổ chức không gian nhà chính: Nhà ở truyền thống về cơ bản không lớn lắm. Tổ chức không gian vừa “mở” - không gian sinh hoạt chung, vừa “đóng” - không gian kiểu buồng the (nơi ngủ).

Nhà đặt trên nền đất cao hơn so với xung quanh, được tôn cao so với mặt sân khoảng 30 - 35 cm.

Không gian sinh hoạt chung là nơi sinh hoạt gia đình hàng ngày. Đây là không gian thiêng nhất của ngôi nhà với gian giữa đặt ban thờ tổ tiên. Những ngày giỗ tết hay nhà có việc, người chủ tháo tạm bức dại và chuồng cửa bức bàn, dựng rạp ngoài sân để cho rộng, thoáng. Ngôi nhà được bố trí ba gian chính thông suốt, mở cửa trông ra sân với hiên thềm, phía sau nhà bưng kín và bố trí thêm ô cửa nhỏ ở hai gian bên để lấy ánh sáng.

Không gian đóng gồm các chái và dĩ được bố trí đều về hai bên của gian chính, một số nhà có gian chái bố trí lệch hẳn về một bên của gian chính; thường có hai gian, bốn chái, một chái rất ít gặp. Đây là nơi thường dành cho phụ nữ hay vợ chồng người con trưởng, còn được kết hợp như nhà kho. Chái được bưng kín bốn mặt thông với gian chính bằng lối đi qua hiên, có khi lối đi đó được mở ở tường hậu nhằm tránh phụ nữ đi qua gian chính khi nhà đương có khách hay đang cúng lễ.

- Kết cấu, vật liệu và kỹ thuật xây dựng nhà chính.

Khung nhà: Lòng nhà nông, gồm gian - chái - dĩ. Gian và chái là hai thành phần chính.

Ngôi nhà gồm ba kết cấu chính: Nền móng, thân nhà, mái nhà. Nền nhà đắp cao từ 30 - 50cm so với mặt sân, xung quanh nền xây bo bằng gạch.

Bộ khung nhà gồm cột - xà - kẻ (kèo), cột giữ vai trò chịu lực, liên kết ngang và liên kết dọc. Tùy theo vị trí của bộ vì có tên gọi: Vì chính, vì phụ, vì thuận.

Cột có ba loại: cột cái, cột quân (cột con) và cột hành (cột hiên) và một loại biến thể là cột trốn là những thân gỗ ngắn, đứng trên xà ngang. Bước cột (khoảng cách giữa các cột) của cột cái lớn hơn cột quân hay từ cột quân đến cột hành. Bước cột ở các địa phương trong huyện có sự khác nhau. Chân cột được kê bằng đá tảng.

Xà gồm xà dọc (xà tử thượng, xà tử hạ, xà thượng, xà hạ và xà nóc (thượng lương, cây nóc), bố trí đối xứng với nhau qua xà nóc và xà ngang (xà lòng, xà nách, quá giang, xà đùi, câu đầu).

Kẻ (kèo) trực tiếp đỡ hoành gồm nhiều loại: kẻ suốt, kẻ kìm, kẻ cổ ngỗng (một hình thức biến dạng của ván dong).

Bộ vì là yếu tố căn bản của bộ khung gỗ nhà chính. Tạo thành bộ vì gồm 4 cột (hai cột cái, hai cột quân) có khi thêm cột hành (cột hiên) liên kết các cột là các vì nóc, vì nách, kẻ và bẩy. Các con rường (con chồng) được chồng lên nhau bố trí chủ yếu ở vì nóc.

Mô đun (thức) kiến trúc cổ tương ứng với 3 khoảng: khoảng đứng, khoảng chảy, khoảng ngang. Tỷ lệ tương ứng giữa các bộ phận trong khung nhà và khoảng cách các cột có qui định và thống nhất tương đối bằng thước ta ( 40m). Thường các nhà lưu giữ cây thước tầm gác trên câu đầu để dùng khi sửa chữa nhà.

Có thể phân loại nhà chính ở Bình Lục xưa căn cứ vào cột, xà ngang có các loại sau: Loai đủ cột, loai trốn cột, loại quá giang (xà vượt), loại lọng tàn, loại nội tự - ngoại khách.

Số lượng nhà kết cấu vì trốn cột và quá giang chiếm phần lớn với các kiểu vì: Con chồng - ván mê, con chồng - kẻ ngồi. Bộ vì nhà với số lượng 4 - 5 cột một vì chiếm chủ yếu.

- Vật liệu xây dựng ngôi nhà chính là gỗ và gạch, ngói, vôi, cát.

Vì chính và vì thuận các cấu kiện dùng cùng một loại. Cụ thể: Thân cột bằng gỗ lim, gỗ gụ, tảng kê chân cột bằng đá tảng. Xà bằng gỗ lim, xoan. Kẻ, bẩy, ván mê con rường gỗ lim, xoan. Hoành bằng gỗ lim, xoan rui: gỗ lim xoan. Có nhà hoành bằng luồng tre. Ở vì thuận các cấu kiện như bạo đứng, bạo ngang, ván nong làm bằng gỗ lim, gỗ xoan.

Vật liệu làm vì phụ không được chú trọng, tận dụng gỗ tạp hoặc gỗ thừa sau khi đã làm vì chính, vì thuận.

Tường vật liệu xây là gạch nung, cá biệt có nhà tường bao phía sau 3 gian chính ghép bằng ván gỗ. Có hai loại tường: Tường bao kiên cố phần lớn bằng gạch chỉ và tường nhẹ bằng ván gỗ, ván tre ghép. Tường thường được trát vữa.

Nền nhà gồm hai loại: Nền bằng đất nện và nền được lát bằng gạch Bát Tràng (30 x 30m) hoặc gạch chỉ lát theo kiểu chữ công.

Mái: Vật liệu chính là ngói ta hình vảy cá hay hình mũi hài màu đỏ, được xếp trên ngói lót (ngói chiếu) vuông. Để giảm bớt sự nặng nề của bộ mái người ta đắp bờ nóc, bờ chảy ở đầu hồi, tạo các gờ chỉ, diềm mái mềm mại.

Cửa đi chính được làm bằng gỗ. Loại cửa thường thấy là “thượng song hạ bản” kiểu bức bàn. Cửa này gồm phần cửa và phần đố. Phần cửa được cấu tạo bởi khung cửa (2 bạo đứng, 1 bạo nằm) và các cánh cửa tháo, lắp dễ dàng. Phần đố cấu tạo bởi ngưỡng bằng gỗ ở trên và lá ngạch bằng gỗ, ngạch xây gạch bên dưới.

Dại che nắng làm bằng tre nứa đặt ngoài hiên để cản bức xạ nhiệt từ sân vào nhà. Dại đan kiểu nống mốt, có những ô trống để thông gió.

Kỹ thuật xây dựng nhà chính cũng như các hạng mục phụ hoàn toàn bằng thủ công. Gỗ dùng cho các cấu kiện được ngâm kỹ dưới ao, hồ. Vữa được làm từ vôi cát có khi thêm giấy bản băm nhỏ trộn với nhau trong nước. Đặc biệt để liên kết các cấu kiện kiến trúc của bộ vì, cửa người ta dùng các kiểu mộng khác nhau.

- Bố trí nội thất nhà chính.

Nội thất ngôi nhà chính thường được bố trí như sau:

Ban thờ được đặt ở nơi trang trọng, sáng sủa. Đối với nhà ở kết hợp với thờ cúng ban thờ được đặt ở gian giữa sát với tường hậu. Nhiều nhà xây lồi về phía sau tạo ra phòng riêng. Người ta dùng gấm, lụa đỏ hoặc mành tre hay vải để che, có nhà có hoành phi, câu đối sơn son thiếp vàng. Trước ban thờ kê sập gụ hoặc phản gỗ. Đối với nhà ở không kết hợp với thờ cúng, nơi thờ tự tách khỏi nhà chính thành nếp nhà riêng có qui mô nhỏ hơn nhà chính nhưng bài trí thờ tự cầu kỳ hơn.

Nơi tiếp khách, không gian quan trọng thứ hai sau thờ cúng. Đối với nhà kết hợp thờ cúng, nơi tiếp khách bố trí tại gian giữa của nhà, kế tiếp không gian thờ cúng. Tuy nhiên, vị trí có khác biệt giữa kiểu nhà nội tự - nội khách (không gian tiếp khách và thờ cúng chuyển tiếp không ngăn cách), nhà nội tự - ngoại khách (không gian tiếp khách và thờ cúng) chuyển tiếp có sự ngăn cách. Một số trường hợp không gian tiếp khách bố trí lệch sang bên.

Nơi ngủ của đàn ông được bố trí ở gian bên. Nơi ngủ của đàn bà được bố trí trong gian chái. Nhà có vợ lẽ chỗ ngủ được bố trí ở nhà ngang.

Hiện nay nhà ở trên địa bàn huyện Bình Lục tiếp tục biến đổi có các loại nhà ở: Nhà truyền thống, nhà cải tiến, nhà ở kết hợp với sản xuất, dịch vụ, thương mại.

VI. TỤC LỆ

Các làng xã Bình Lục có lịch sử hình thành lâu đời. Tổ chức làng xã theo cơ cấu: dòng họ, xóm và phe giáp.

Làng xã nào ở Bình Lục cũng có tục lệ vừa mang tính chung vừa mang nét riêng. Tục là những thói quen trong xử sự được cả cộng đồng chấp nhận. Lệ là những qui ước mà mọi thành viên làng xã bắt buộc phải tuân theo, song song tồn tại với luật pháp nhà nước, có hiệu lực rất lớn đối với cả cộng đồng, “phép vua thua lệ làng” là vậy.

1. Hôn nhân

a) Những lễ nghi kết hôn xưa

Từ xa xưa đến nay người dân Bình Lục quen gọi lễ cưới là hôn lễ. Xưa kia người ta thường làm lễ cưới vào buổi chiều tối. Dân gian coi việc lấy vợ là một trong ba việc quan trọng nhất của đấng nam nhi xưa: “Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà”.

Khi cưới vợ, gả chồng nhà trai và nhà gái đều phải tuân thủ 6 lễ nghi chính:

- Lễ nạp thái: Sau khi nghị hôn, nhà trai mang sang nhà gái một cặp “nhạn” để tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy.

- Lễ vấn danh là lễ do nhà trai sai người mai mối đến hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của người con gái.

- Lễ nạp cát: Lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thôi, thoáng hơn người ta tìm cách hóa giải.

- Lễ nạp tệ: Là lễ nộp đồ sính lễ cho nhà gái, chứng tỏ cho sự hứa hôn chắc chắn.

- Lễ thỉnh kỳ là lễ định ngày giờ rước dâu tức lễ cưới.

- Lễ thân nghinh: Đúng ngày giờ đã định, họ nhà trai mang lễ đến để rước dâu về.

b) Lễ nghi cưới hỏi ngày nay

Theo luật hôn nhân gia đình thì khi nam, nữ đăng ký kết hôn thì chính thức được công nhận là vợ chồng. Tuy nhiên theo quan niệm phổ biến của người dân khi nào lễ cưới được tổ chức có sự chứng kiến của hai bên họ hàng, làng xóm và đôi trai gái làm lễ thắp hương tổ tiên thì mới chính thức trở thành vợ chồng. Tuy nhiên những nghi lễ rườm rà xưa đã được bỏ bớt hoặc gói gọn đơn giản hơn rất nhiều.

Ngày nay lễ nghi được rút gọn chỉ còn ba lễ: Dạm ngõ, ăn hỏi và lễ cưới, có trường hợp chỉ còn hai lễ ăn hỏi và lễ cưới.

- Lễ dạm ngõ: Được sự đồng ý của nhà gái, nhà trai đem lễ đến. Thông thường đồ lễ là trầu cau, chè, thuốc lá, bánh kẹo…

- Lễ ăn hỏi hay còn gọi là vấn danh, theo tục xưa là hỏi tên tuổi cô gái, nhưng ngày nay cha mẹ đôi bên đã biết rõ rồi. Sau ngày lễ ăn hỏi phải có báo hỷ, chia trầu. Nhà gái trích trong lễ vật nhà trai đưa đến mang đến cho họ hàng của nhà gái. Cũng trong lễ ăn hỏi, hai họ xem, định ngày tổ chức lễ cưới.

Đồ sính lễ nhà trai mang đến nhà gái gọi là “quả” lễ gồm trầu, cau, chè, rượu, hoa quả, bánh kẹo. Tùy thuộc vào mỗi hoàn cảnh số quả là số lẻ 3, 5, 7, 9 quả, thông thường là 5, 7 quả. Cũng trong lễ này còn có khoản tiền mặt gọi là lễ đen (nạp tệ hay nạp tài xưa) số tiền cũng là số lẻ (5, 7, 9 triệu) không gọi là tiền thách cưới.

- Lễ cưới: Đúng ngày giờ đã định, hai gia đình tổ chức lễ cưới, rạp được dựng, tiệc cưới được tổ chức. Lễ cưới chính thức khi nhà trai đón dâu về nhà chồng tiến hành nhiều nội dung như nêu lý do, ý kiến của đại diện hai gia đình, chú rể, cô dâu đeo nhẫn cưới cho nhau… nhiều đám cưới có người dẫn chương trình, văn nghệ.

Hiện nay có những đám rước dâu hai lần, hay cưới chạy tang tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể.

c) Đám cưới của giáo dân

Đối với giáo dân Bình Lục, việc cưới xin là một trong bảy phép bí tích (Thánh tẩy, thêm sức, thánh thể, sám hối, xức dầu, truyền chức, hôn phối). Bí tích hôn nhân là sự nhìn nhận của chúa đối với việc chung sống trọn đời của đôi nam nữ đã chịu phép rửa tội. Bất cứ đôi tân hôn nào trước khi đi đến hôn nhân đều phải nhận phép bí tích này.

Thủ tục cưới xin của tín đồ Công giáo Bình Lục có: Dạm ngõ, lễ hỏi, nạp cheo, phép giao, lễ cưới.

2. Tang lễ

Phong tục lễ tang của người Bình Lục nói riêng, người Việt Nam nói chung nhiều thế kỷ qua thường được vận dụng theo tổng kết của “Thọ Mai gia lễ” gồm hàng loạt các nghi lễ thể hiện qua từng thời đoạn. Trên thực tế chỉ có những gia đình Nho gia, quan chức, giàu có mới có những điều kiện thực hiện đủ theo qui chế này.

a) Những lễ nghi xưa

- Khi mới mất

Nhà nào có ông già, bà cả gần mất con cái vực đến chỗ chính tẩm hỏi han xem có trối trăng gì, rồi đặt tên hiệu cho con cháu biết. Con cái dùng nước trầm hương lau thân thể người sắp mất, thay quần áo tươm tất, gọi là lễ mộc dục. Khi người thân tắt thở rồi thì lấy chiếc đũa cả để ngang hàm bỏ một ít gạo và ba đồng tiền đồng vào miệng, nhà phú quí thì dùng ba miếng vàng sống, chín hạt châu trai, gọi là lễ Phạn hàm.

Đoạn trải chiếu xuống đất, đưa người chết xuống, một lát rồi lại đưa lên giường. Người con cầm cái áo của người mới thay, trèo lên mái nhà hú vía ba tiếng, có ý còn mong cho người chết sống lại, rồi lấy áo phủ lên thây người chết.

- Khâm liệm, nhập quan.

Nhà giàu dùng vóc nhiễu tơ lụa, nhà nghèo thường dùng vải trắng, may làm đại liệm, tiểu liệm (đại liệm một mảnh dọc, năm mảnh ngang, tiểu liệm một mảnh dọc, ba mảnh ngang) để khâm liệm, sau đó nhập quan, trong quan tài thường có mảnh ván đục hình Bắc đẩu thất tinh hoặc cỗ bài tổ tôm để trấn áp ma quỷ, ngoài quan tài dán bùa. Quan tài đặt chính gian giữa nhà, đầu người chết quay ra ngoài.

- Chuyển cữu.

Trước hôm phát dẫn, ban đêm, hoặc buổi sớm làm lễ chuyển cữu, nghĩa là xoay quan tài đi một vòng rồi đặt ở vị trí cũ.

- Phát dẫn.

Tức là đưa tang, đưa quan tài đến nơi mai táng.

Cha mất thì con trai chống gậy tre, mẹ mất thì chống gậy vông và phải thực hiện quy định “Cha đưa, mẹ đón”. Con gái, con dâu thì lăn đường mới là có hiếu với cha, mẹ. Một vài người thân thích đi kèm linh cữu gọi là hộ tang. Những người đi đưa gọi là tống tang.

Đưa đám tang dọc đường có cắm cờ vuông tua chỉ hai màu đen trắng.

Nhìn chung thứ tự đưa tang như sau: Cờ tang, Phướn, đối trướng, vòng hoa, đội nhạc tang, bàn để bát cơm quả trứng, đèn, hương hoa, linh cữu, thân nhân người quá cố, họ hàng, dân làng, xóm.

- Hạ huyệt.

Khi hạ huyệt có lễ thổ thần ở nơi chôn cất. Có thầy địa lý chỉ dẫn đến giờ tốt thì hạ huyệt.

Thọ Mai gia lễ còn qui định cụ thể chi tiết về tang phục, thiết lập linh sàng, khóc lạy, ngu tế, đắp mộ, viếng mộ, nghi tượng đám tang…

Ngày nay tang lễ được tổ chức giản tiện hơn nhiều, có bổ sung nội dung đọc điếu văn. Các trình tự là: Khâm liệm, nhập quan, phúng viếng, đưa tang, hạ huyệt.

c) Lễ tang của giáo dân.

- Khi tín đồ công giáo sắp qua đời, linh mục được mời đến làm lễ xức dầu.

- Tín đồ qua đời, người nhà báo cho linh mục chính xứ, ban điều hành giáo xứ, họ đạo. Nhà thờ kéo chuông sầu, chuông tử hay chuông rình sinh thì. Qua tiếng chuông người đồng đạo biết người qua đời là nam hay nữ, theo cách: bảy tiếng rời + ba hồi nhịp ba (cho nam giới), chín tiếng rời + ba hồi nhịp ba (cho nữ giới). Nghe chuông, đồng đạo hướng về phía nhà thờ đọc kinh lạy cha.

- Thân nhân tụ tập đến đọc kinh “Cầu cho người hấp hối mong sinh thì”.

- Người qua đời được đặt nằm trên giường, xung quanh có rắc hoa tươi. Trừ những ngày không được đưa tang như trong luật qui định không được làm lễ an táng, giáo dân không chọn ngày giờ lành dữ để đưa tang.

- Tín đồ qua đời được đưa vào nhà thờ làm lễ chồng mồ. Quan tài đặt quay đầu về cung thánh ở chính giữa. Trên áo quan phủ vải đen có hình thập giá trắng.

- An táng: Khi đưa đám để chân người chết về phía trước. Đám tang đi theo thứ tự: cờ tang, quan viên, trẻ nam, trung nam, bát âm, vòng hoa, quan tài, thân chủ người qua đời.

3. Khao vọng

Các làng xóm Bình Lục xưa có tục khao vọng, người đỗ đạt, mua ngôi thứ, thăng quan hoặc lên lão đều phải làm khao. Người nào đỗ đạt, được phong sắc cấp bằng, được miễn sưu thuế phải đến trình tiên chỉ và kỳ mục, chức dịch trong làng xin nộp khao, gồm thịt lợn, xôi, trầu cau, rượu. Đồ khao trước hết phải mang đến đình lễ Thành hoàng, sau đó mới mời ăn khao. Người đi ăn khao cũng phải mừng bằng vật phẩm và tiền bạc.

Việc khao lão là hình thức phổ biến nhất. Trước đây, 50 tuổi đã được lên lão, nhưng chưa được mừng thọ. Độ tuổi được làm lễ mừng thọ tổ chức khi vào tuổi tròn: 60 tuổi gọi là Hạ thọ, 70 tuổi gọi là Trung thọ, 80 tuổi gọi là Thượng thọ, 90 tuổi là Thượng thượng thọ, trên 90 tuổi là Đại thọ.

Vào dịp đầu năm, đón xuân mới người ta thường tổ chức khao thượng thọ, thường vào mồng hai tết trong gia đình. Bên cạnh việc sửa lễ để cáo gia tiên, con cháu cũng sắm lễ để cúng ở đình. Mâm cỗ cần phải có xôi, chè, trà, rượu, hoa quả, thịt gà, thịt lợn,… hoặc lợn quay cả con, bánh sinh nhật nếu có điều kiện. Cha, mẹ được mừng thọ trong y phục trang trọng, thường là y phục có màu đồng nhất, màu đỏ hoặc màu vàng, ngồi trên sập kê giữa nhà, hoặc ngồi trước bàn thờ. Con cháu lần lượt đến, kính cẩn dâng rượu, rồi lễ lạy cha mẹ. Ngoài con cháu trong gia đình, còn có họ hàng nội ngoại gần xa, lân gia và khách mời đến chúc thọ. Tiếp đến con cháu, khách mời dâng quà tặng thượng thọ cho các cụ “Phúc như đông hải, thọ tỷ nam sơn”.

Ngày nay ở Bình Lục, phong tục khao thường giản tiện hơn so với trước kia. Đặc biệt việc chúc thọ, mừng thọ đã đưa vào Luật người cao tuổi, điều 21 qui định: Người thọ 100 tuổi được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chúc thọ và tặng quà. Người thọ 90 tuổi được Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố chúc thọ và tặng quà. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn phối hợp với Hội người cao tuổi tại địa phương, gia đình của người cao tuổi tổ chức mừng thọ người cao tuổi ở tuổi 70, 75, 80, 85, 90, 95 và 100 tuổi trở lên vào một trong các ngày sau đây: Ngày Người cao tuổi Việt Nam, ngày Quốc tế người cao tuổi, Tết nguyên đán, sinh nhật của người cao tuổi.

4. Tục ăn Tết lại

Làng Thượng thọ, làng An Thái thị trấn Bình Mỹ có tục ăn tết lại từ lâu đời.

Làng Thượng thọ ăn tết lại vào ngày mồng 8 tháng giêng, tương truyền bắt nguồn từ cuộc hành quân của Đô đốc Bảo theo lệnh Nguyễn Huệ dẫn một cánh quân ra Bắc đánh quân Thanh vào mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789). Ông có dừng quân tại làng Thượng Thọ, được dân làng đón tiếp chu đáo, nhiều trai tráng tòng quân theo ông. Để khích lệ binh sỹ, ông truyền lại lời Nguyễn Huệ, trồng một cây sanh và nói: Cây này sẽ sống để đón mừng đoàn quân ta chiến thắng trở về. Đúng ngày mồng Tám, tháng giêng, tại đây ta sẽ mở tiệc khao quân ăn Tết lại.

Đúng hẹn, Đô đốc Bảo dẫn đoàn quân chiến thắng về lại Thượng Thọ. Cây sanh đã xanh tốt ông mở tiệc khao quân triệu tất cả dân làng đến dự.

Dân làng Thượng thọ đã lập đền thờ Đô đốc Bảo bên cạnh cây sanh lấy ngày mồng Tám tháng giêng là ngày ăn Tết lại và tế lễ tưởng nhớ Đô đốc. Dân làng làm cỗ bàn thịnh soạn, đầy đủ các món như ngày Tết nguyên đán.

Làng An Thái ăn tết lại vào mồng Mười, tháng Giêng. Tục này là để tưởng nhớ ba vị Hoàng Công, Đô Công, Uy Công - Thành Hoàng làng. Dân làng lại giết lợn, mổ gà, giã giò, gói bánh, làm các món như ngày Tết nguyên đán. Đồng “Bánh chưng Bố” đặt trên bàn thờ được đem xuống, bổ bánh mời họ hàng.

Việc gói “Bánh chưng Bố” là theo lệ làng. Con rể làng An Thái mỗi năm tết bố mẹ vợ 3 lần vào đầu hai vụ lúa chiêm, mùa và Tết. Bánh chứng Bố con rể tết bố mẹ vợ chỉ vào dịp năm mới và chỉ đặt ra với con rể vào năm đầu tiên xây dựng gia đình. Đồng bánh chưng thường dùng tới 7 ống gạo nếp ngon (gần 6kg), hai cân rưỡi đỗ xanh, 1 cân thịt lợn. Bánh luộc trong một chiếc nồi to, khoảng trên 12 tiếng đồng hồ mới chín. Nhà gái nhận bánh vào ngày 29 hoặc 30 tết.

5. Tục săn cuốc

LàngVị Hạ (xã Trung Lương) và làng Yên Đổ (xã An Đổ) xưa kia có tục săn cuốc.

Tục săn cuốc (một giống chim hay phá hoại mùa màng) của làng Vị Hạ mở đầu từ sáng sớm ngày mồng hai Tết. Theo lệnh của ông tiên chỉ, người cầm lệnh đi khắp giáp Đông, giáp Đoài báo trước hội săn cuốc sắp đến.

Tục săn cuốc được thực hiện vào sáng mồng ba và sáng mồng năm tết, mọi người tập trung ở đình làng, đi tay không. Người cầm lệnh ra sức khua. Tất cả cùng xông vào các bụi tre, khóm trúc, bụi lau sậy rậm rạp. Tiếng người la, cùng lệnh khua làm chim cuốc hoảng sợ. Thấy cuốc mọi người ùa theo, bất kể là dưới nước hay trên cạn. Ai bắt được cuốc phải giơ lên cho người khác biết, nếu không thì sẽ bị giằng cướp hoặc xé nát, vì người ta tin rằng làm như vậy là được “khước”. Ai bắt sống con cuốc đầu tiên được thưởng nhiều tiền nhất, người bắt được con thứ hai, thứ ba… số tiền được thưởng ít dần. Xé được một phần con cuốc cũng được thưởng. Chim cuốc nguyên vẹn, còn sống đem giết thịt để lễ thánh ở đền Thánh cả, dân làng tin rằng năm đó làng sẽ gặp nhiều may mắn.

Làng Yên Đổ săn cuốc vào sáng mồng sáu, tháng giêng, do lềnh trưởng chỉ huy. Người ta reo hò, đánh chiêng, trống, vác gậy sục sạo khắp các bụi bờ. Trong cuộc săn chỉ được dùng gậy và tay bắt cuốc. Cuộc săn chỉ kéo dài trong buổi sáng. Sau đó mọi người tập trung về đình làm thịt số cuốc bắt được để cúng lễ rồi chia đều số thịt đó cho mọi người.

VII. LỄ HỘI

Bình Lục với bề dày lịch sử lâu đời, có nhiều lễ hội cổ truyền, gắn bó mật thiết với tín ngưỡng tôn giáo.

1. Lễ hội tiêu biểu

a) Lễ hội làng An Thái (thị trấn Bình Mỹ)

Hàng năm lễ hội mở từ ngày mồng 9 đến ngày 11 tháng 2 âm lịch nhằm tưởng niệm ba anh em đồng sinh là Hoàng Công, Uy Công, Đô Công. Ba vị làm tướng đời vua Hùng Huy Vương.

Sáng sớm ngày mồng 9 đám rước khởi hành từ đình Công Đồng hướng về đền Thánh Ba rồi quay trở lại đình. Cuộc tế Đại hành trang được cử hành vào đúng giờ Ngọ (12 giờ trưa) đến chiều.

Ngoài đám rước, lễ hội còn có các sinh hoạt văn hóa: múa rồng, sư tử trình thánh, vật thờ, đua thuyền rồng của nam nữ trên mặt hồ, thi đấu cờ người. Tuy từng năm còn có diễn tuồng, chơi đu, leo cầu phao, bắt vịt, chơi cờ biển, hát chầu văn, ca trù, ngâm thơ cổ. Diễn các tích tuồng cổ, diễn viên chính là người dân An Thái.

b) Lễ hội làng Mỹ Đôi (thị trấn Bình Mỹ)

Đình Mỹ Đôi thờ các vị Thành hoàng: Bà Ả Đào, Nguyễn Phương, Nguyễn Quế cùng hai vị tiến sĩ Bùi Công Bang, Bùi Công Minh. Hằng năm để tưởng niệm các vị Thành hoàng dân làng tổ chức lễ hội vào hai ngày 14 và ngày 15 tháng 2 âm lịch.

Sáng ngày 14 các giáp rước bát hương, khiêng kiệu thờ từ các đền nhỏ về đình làm lễ khai hội.

Điều đặc biệt trong lễ hội là diễn lại sự tích công phá đồn giặc Minh vào nửa đêm ngày 14 rạng ngày 15.

Hội làng còn tổ chức múa lân, chơi đu, đấu vật thi gà chọi, bắt chạch trong chum, thi dệt vải.

c) Lễ hội làng An Lão (xã An Lão)

Ngày 25 - 27 tháng 10 âm lịch hàng năm làng An Lão mở hội để kỷ niệm ngày sinh của Đức Thiên Cương Đại Vương Lý Công Bình là Thành Hoàng làng.

Giờ Chính Mão (6 giờ sáng) làng tiến hành rước kiệu Thánh từ đình Sọng trong làng đến đình Thượng tọa lạc ở chân núi An Lão, thờ Hồ Tố Đại Vương là người theo Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn trong trận đánh bại tướng Ô Mã Nhi nhà Nguyên.

Buổi chiều tại sân đình Sọng làng tổ chức đấu vật, đánh gậy, chọi gà, hát ca trù cửa đình hầu thánh… Buổi tối có diễn các tích chèo cổ.

Sáng ngày 26, dân làng rước kiệu Thánh về đình Sọng và tiến hành tế lễ. Sáng ngày 27 làng tổ chức tế tạ yên vị và hạ cỗ thụ lộc.

d) Lễ hội làng Gòi Hạ (xã An Nội)

Lễ hội tổ chức hàng năm trong 3 ngày từ mồng 10 đến ngày 12 tháng 3 âm lịch để kỷ niệm ngày sinh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng - Thành Hoàng làng.

Ngày mồng 10 các chức sắc già làng đại diện cho 6 giáp cùng 4 trai tráng khiêng một cỗ kiệu để đến nhà ông Tiên chỉ rước văn tế về làm lễ mở cửa đình.

Sáng ngày 11, đúng giờ qui định, đám rước khởi hành từ đình làng để đến đền Bãi thờ hai vị Trấn tướng Công và Cù tướng Công, làm lễ bái vọng, sau đó đám rước đi quanh làng, xuống chùa Phúc Khánh làm lễ Phật rồi ngược lên văn chỉ làm lễ các bậc tiên hiền. khoảng 2 giờ sau đám rước quay về đình, tổ chức Đại tế.

Buổi chiều tại sân đình có nhiều trò vui: leo cầu phao, bịt mắt bắt dê, chọi gà, tổ tôm điếm…

Buổi tối phường chèo thôn Sức (xã Mỹ Thịnh, Mỹ Lộc, Nam Định) được dân làng mời đến diễn các tích chèo cổ Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Lã Bố Điêu Thuyền.

Sáng ngày 12, dân làng tổ chức lễ tạ Thành hoàng, kết thúc lễ hội.

e) Lễ hội làng Ngô Khê (xã Bình Nghĩa)

Lễ hội hằng năm tổ chức vào hai kỳ: Ngày mồng 10 tháng giêng âm lịch kỷ niệm ngày sinh của ông Dương Học. Ngày mồng 10 tháng 7 âm lịch mừng công thắng trận của 3 vị Thành hoàng Hồng Vân, Nga Nương và Nguyệt Minh. Hai kỳ hội làng được tổ chức qui mô như nhau, chỉ khác là kỳ hội ngày 10 tháng 7 đồ lễ không có chè kho, không tổ chức trò cướp cầu.

Đám rước trong cả hai kỳ lễ hội đều qua đền Ông, đền Bà, đền Mẫu rồi quay về đình Gòi, tổ chức tế.

Trong lễ hội dân làng còn tổ chức đánh gậy, chọi gà, đấu cờ tướng…

9. Lễ hội làng Thanh Nghĩa (xã Đồn Xá)

Lễ hội 3 năm tổ chức một lần vào 3 ngày từ mồng 4 đến mồng 6 tháng giêng âm lịch để kỷ niệm ngày ông Lý Công Bình - Thành hoàng làng cùng phu nhân Lan Hoa công chúa thắng trận trở về.

Ngày chính hội dân làng tổ chức đón rước từ đình làng đến đền làm lễ, rồi đi quanh làng, sau đó về đình để tế lễ.

Cùng với rước xách dân làng còn tổ chức thi nấu xôi, thi lợn béo, bắt vịt, chọi gà, bắt chạch trong chum. Đặc sắc nhất là cuộc thi hát trống quân của thanh niên nam, nữ.

 10. Các lễ hội khác

- Lễ hội làng Yên Đổ (xã An Đổ)

Hằng năm làng tổ chức lễ hội vào hai dịp: Ngày mồng 6 tháng giêng âm lịch kỷ niệm ngày sinh ông Đương Chu - Thành hoàng làng. Ngày 12 tháng 8 âm lịch, tưởng niệm ngày mất của ông Đương Chu. Lễ hội tổ chức tại đình làng.

- Lễ hội làng Dương (xã An Lão)

Đình Dương thờ Đô Thiên Đại Vương, tướng thời Hùng Huy Vương làm Thành hoàng làng. Hằng năm tại đình làng tổ chức hai kỳ lễ hội: Ngày 10 tháng 2 âm lịch kỷ niệm ngày sinh của Thành hoàng. Ngày mồng 10 tháng 11 âm lịch tưởng niệm ngày mất của Thành hoàng.

- Lễ hội làng An Tập (thị trấn Bình Mỹ)

Hằng năm dân làng tổ chức lễ hội trong 3 ngày 14 đến ngày 16 tháng 2 âm lịch để kỷ niệm Ngô Lang Đại Vương - Thành hoàng làng về An Tập lập hành cung.

- Lễ hội làng Cát Lại (xã Bình Nghĩa)

Lễ hội tổ chức tại đình làng hằng năm trong 3 ngày từ ngày 10 đến ngày 12 tháng 10 âm lịch để tưởng niệm ngày mất của hai vị Thành hoàng Phạm Quang, Phạm Huy.

- Lễ hội làng Đạo Truyền (xã Đồn Xá)

Lễ hội tổ chức 3 năm một lần từ ngày mồng 9 đến mồng 10 tháng giêng âm lịch tại đình chùa làng để cầu phúc cho dân làng.

- Lễ hội làng Nhân Dực (xã Đồn Xá)

Lễ hội tổ chức 3 năm một lần, trong 3 ngày từ ngày mồng 9 đến ngày 11 tháng 2 âm lịch tại đình làng, để tưởng niệm ngày mất của Cây Cự Đại Vương - Thành Hoàng Làng.

- Lễ hội làng Tiên Lý (xã Đồn Xá)

 Lễ hội mở 3 năm một lần từ ngày 14 đến ngày 16 tháng 2 âm lịch tại đình làng luân phiên với làng Mỹ Đôi (thị trấn Bình Mỹ) vì cả hai ngôi đình cùng thờ nữ tướng Bà Ả Đào Nguyễn Thị Huệ.

- Lễ hội làng An Bài (xã Đồng Du)

Đình làng thờ làm Thành hoàng 3 vị: Chiêu Thành Đại Vương, Linh Quang Đại Vương thời Hùng Huy Vương, Dương Công Đán là tướng thời vua Lý Nhân Tông. Lễ hội tổ chức vào trung tuần tháng giêng âm lịch từ 3 đến năm ngày tùy năm, tại đình làng.

- Lễ hội làng Đồng Du Nội (xã Đồng Du)

Lễ hội tổ chức tại đình, chính hội là ngày 13 tháng giêng âm lịch, tưởng niệm Đông Bảng Đại Vương - Thành hoàng làng và Vàng Mười công chúa.

- Lễ hội làng Đồng Du Trung (xã Đồng Du)

Lễ hội tổ chức tại đình làng từ ngày mồng 9 đến ngày 12 tháng giêng âm lịch tưởng niệm 3 vị Thành hoàng là Cao Sơn, Quý Minh, Đông Hải.

- Lễ hội làng Cổ Viễn (xã Hưng Công)

Lễ hội nhằm tưởng niệm Hoằng tướng Công và Phạm Công chúa, tổ chức hằng năm tại đình, chùa làng vào ngày 13 tháng giêng âm lịch.

- Lễ hội làng Đồng Rồi (xã La Sơn)

Đình làng thờ 4 vị Thành hoàng: Thiên Cảm Gia Ứng, Linh Vũ Đại Vương, Thánh giám Thần Quan Đại Vương, Trợ tế Bến Ác Đại Vương. Làng mở lễ hội tại đình từ ngày mồng 10 đến ngày 15 tháng giêng âm lịch để tri ân các vị.

- Lễ hội làng Tập Mỹ (xã La Sơn)

Đình làng thờ Lôi Công Đại Vương và Đô Úy tướng Công Vũ Cạnh làm Thành hoàng làng. Hằng năm làng mở hội tại đình làng từ ngày mồng 8 đến ngày mồng 10 tháng giêng âm lịch nhằm tưởng nhớ công lao hai vị.

- Lễ hội làng Tập Thượng (xã La Sơn)

Lễ hội tổ chức 3 năm một lần tại đình làng trong 2 ngày mồng 9 và mồng 10 tháng giêng âm lịch để tưởng nhớ công lao Thành hoàng Đức Địa Kỳ.

- Lễ hội làng An Dương (thị trấn Bình Mỹ)

Lễ hội tổ chức 3 năm một lần tại đình làng từ mồng 8 đến mồng 10 tháng giêng âm lịch để tưởng nhớ công lao của 3 vị Thành hoàng là Đào Công, Quế Công, Liễu Công và Phương Nương là 4 anh em ruột.

- Lễ hội làng Văn Phú (thị trấn Bình Mỹ)

Đình làng thờ Nguyễn Phục làm Thành hoàng và các tùy tướng thời Hậu Lê. Dân làng mở lễ hội nhằm tưởng nhớ công ơn các vị từ ngày 12 đến ngày 16 tháng 2 âm lịch, tại đình làng.

- Lễ hội làng Chủ (xã Ngọc Lũ)

Dân làng tôn phong các tướng thời Hùng Nghị Vương làm Thành hoàng làng là Câu Mang Đại Vương, Minh Công, Tuệ Công. Lễ hội tổ chức hằng năm tại đình chùa làng trong hai ngày mồng 5 và mồng 6 tháng Giêng âm lịch để kỷ niệm ngày các vị nghỉ lại làng Chủ giúp dân trừ dịch bệnh đem lại cuộc sống thanh bình cho dân.

 - Lễ hội làng Tiêu Hạ (xã Tiêu Động)

Lệ hội tổ chức hằng năm tại đình làng từ ngày mồng 6 đến ngày mồng 10 tháng giêng để tưởng nhớ công lao 3 vị Thành hoàng: Cao Mang Đại Vương, Đông Mộc Đại Vương, Quảng Đại Đại Vương.

- Lễ hội làng An Thái (xã Tràng An)

Đình làng thờ Hà Bá Thủy quan làm Thành hoàng làng, phối thờ Đô Tả Thái Giám, Quế Hoa phu nhân tôn thần. Lễ hội làng tổ chức 3 năm một lần vào 2 ngày mồng 10 và ngày 11 tháng giêng âm lịch tại đình làng để tưởng nhớ côn lao của Thành hoàng và các vị phối thờ.

- Lễ hội làng Vị Hạ (xã Trung Lương)

Lễ hội tổ chức hằng năm tại đình làng, từ ngày mồng 3 đến ngày mồng 6 tháng giêng âm lịch để tưởng nhớ công ơn hai vị Thành hoàng: Đông Hải Đại Vương Nguyễn Phục thời Hậu Lê và tướng Đương Chu Thời Đinh.

- Lễ hội làng Vị Thượng (xã Trung Lương)

Lễ hội tổ chức 3 năm một lần tại đình làng từ ngày mồng 7 đến ngày mồng 9 tháng giêng âm lịch để kỷ niệm ngày sinh của 3 vị Thành hoàng Tuấn Công, Sùng Công, Hiển Công là các tướng thời Hùng Duệ Vương.

- Lễ hội làng Đồng Nhân Nam (xã Vũ Bản)

Lễ hội tổ chức hằng năm tại đình làng, từ ngày 11 đến ngày 13 tháng Giêng âm lịch nhằm tưởng niệm ngày mất của Cao Sơn Đại Vương - Thành hoàng làng.

- Lễ hội làng Thành thị (xã Vũ Bản)

Đình làng thờ vua Trần Thái Tông, Thái sư Trần Thủ Độ, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Lễ hội làng 5 năm tổ chức một lần tại đình làng nhằm tưởng nhớ công ơn 3 vị được thờ phụng.

VIII. TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG

1. Tín ngưỡng

a) Thờ cúng tổ tiên

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có lịch sử lâu đời, trên địa bàn huyện Bình Lục, cũng giống như nhiều địa phương khác hầu như nhà nào cũng thờ gia tiên, không kể con trưởng hay con thứ. Nhà không có điều kiện kinh tế lập ban thờ đóng bằng tre gỗ trên đặt bát hương, lọ hoa có ảnh người quá cố. Nhà có điều kiện thì mua sắm nhang án đặt ở gian trang trọng, treo hoành phi, câu đối, nhiều đồ thờ cầu kỳ hơn thì có ngai hoặc khám thờ.

Việc cúng giỗ gia tiên được thực hiện với những người từ bốn đời trở xuống. Giỗ chạp theo phong tục xưa của người dân Bình Lục chỉ tổ chức ở nhà con trai trưởng. Tùy theo hoàn cảnh kinh tế mà cỗ cúng to hay nhỏ. Nếu con trai trưởng đã mất hoặc nhà không có con trai thì con trai thứ, con gái cúng cha, mẹ, ông, bà.

Thờ cúng tổ tiên dòng họ được bố trí ở nhà trưởng họ, nếu có nhà thờ họ thì việc cúng giỗ diễn ra ở đây.

Đối với giáo dân, từ năm 1974 theo tinh thần của công giáo cả nước, giáo dân Bình Lục được làm các điều: Đặt bàn thờ tổ tiên thấp hơn bàn thờ Chúa; được thắp đèn nhang vái lạy trước bàn thờ tổ tiên; được cúng giỗ trong gia đình theo phong tục địa phương; trong hôn lễ, dâu, rể được làm lễ tổ, lễ gia tiên trước bàn thờ tổ tiên.

b) Thờ Thần, Thành hoàng

Tín ngưỡng này rất phổ biến ở Bình Lục. Theo cuốn “Thần tích, thần sắc Hà Nam” (Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội, 2004) tập hợp bản khai của các làng xã gửi Viễn Đông Bác Cổ, năm 1938 thì trên địa bàn huyện Bình Lục có 497 thiên thần, nhiên thần, nhân thần được thờ phụng, trong đó có 182 nhân thần.

Nhiều vị thần được các làng xã tôn làm Thành hoàng bảo trợ, chủ yếu là nhân thần. Sách Địa dư huyện Bình Lục của tri huyện Bình Lục Ngô Vi Liễn (Nhà in Lê Văn Tân, Hà Nội, 1935) đã cung cấp danh sách 186 ngôi đình trên địa bàn huyện Bình Lục thờ Thành Hoàng.

Chia theo các thời kỳ lịch sử, tình hình thờ các vị nhân thần ở huyện Bình Lục trước năm 1945 như sau:

- Thôn Đồng Xuân, xã Tiêu Động thờ Quốc Mẫu Âu Cơ.

- Thờ các con của Lạc Long Quân và Âu Cơ: xã Đồng Du (cũ) thờ Tuấn Lang và Diêm La, thôn Cao Cái (xã An Mỹ) thờ Tàng Lại, thôn Hòa Trung (xã An Mỹ) thờ Quí Minh, Tăng Lại, Thông Phúc.

- 14 xã thôn thờ tổng cộng 35 nhân vật thời Hùng Vương, thôn Cương (xã Bình Nghĩa) thờ Linh Thảo Đại Vương thời An Dương Vương.

- Các nhân vật tham gia cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng gồm 10 người được thờ ở 6 thôn.

- Các nhân vật có công trong cuộc khởi nghĩa Lý Bí và cuộc kháng chiến của Triệu Quang Phục được 7 thôn thờ, trong đó Lôi Công ở 6 thôn và thôn Nhân Trai (xã Hưng Công) thờ Lý Dương Đức, Lý Hồng Hán.

- Các nhân vật giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân gồm 7 người được 6 thôn thờ.

- Thời vua Lê Đại Hành có 4 nhân vật được hai thôn thờ.

- Thờ 13 nhân vật thời Lý có 12 thôn xã.

- Thời Trần có 18 nhân vật được 10 thôn thờ. Riêng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn được thờ ở 22 thôn.

- Thời Hậu Lê có 27 nhân vật được 17 thôn xã thờ.

- Thời Tây Sơn: Đô đốc Bảo được thờ ở thôn Thượng Thọ (xã Mỹ Thọ).

- Thời Nguyễn: thôn Tập Mỹ (xã La Sơn) thờ Suất Đội Vũ Cạnh, người địa phương. Ông là giám kho thành Phủ Lý, sau đó tham gia bảo vệ thành Hà Nội.

Người Bình Lục cũng như người dân Việt Nam giàu lòng nhân ái, vì thế có 4 thôn xã thờ cả những người Hán xét thấy có công lao hoặc vì thương cảm như Sĩ Nhiếp, Cao Sơn (tên là Hiển) Thái phụ thời Ngô, Hồng Nương phu nhân thời Tống.

c) Thờ Mẫu Tam Phủ

Những năm gần đây tín ngưỡng thờ Mẫu khá phát triển trên địa bàn huyện Bình Lục, vốn là vùng đồng chiêm trũng nên chủ yếu thờ Mẫu Thoải. Nhiều ngôi chùa ở Bình Lục có phủ thờ Mẫu. Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ diễn ra nhiều dịp trong năm như: Hầu xông đền (sau lễ giao thừa năm mới); Lễ hầu Thượng Nguyên (tháng giêng); hầu nhập hạ (tháng tư), hầu tán hạ (tháng 7), hầu tất niên (tháng chạp); Hạp ấn (25 tháng chạp). Quan trọng nhất là hai lễ hầu “Tháng tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ”. Trong năm tùy ở mỗi đền, điện mỗi ông Đồng, bà Đồng còn làm nhiều nghi thức và lễ hầu riêng: Lễ trình đồng, lễ lên đồng, lễ hầu bản mệnh, lễ hầu Cô Bơ… Do nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng, các canh hầu còn diễn ra ở các đền thờ Thánh, đình, chùa. Đến nay nghi lễ hầu đồng không cố định một dịp nào nữa mà rải đều trong năm.

2. Đạo Phật

Phật giáo truyền vào nước ta cuối thế kỷ II bằng đường biển. Các nhà sư Ấn Độ đã theo các thuyền buôn đi truyền giáo. Nơi đầu tiên tiếp nhận là Luy Lâu (ở Thuận Thành, Bắc Ninh nay). Từ đây đạo Phật lan truyền ra các vùng khác.

Sử sách ghi chép sớm nhất về sự xuất hiện Phật giáo ở Bình Lục là “Việt sử lược” biên soạn dưới thời Trần ghi nhận vào tháng 9 âm lịch năm Kỷ Mão, niên hiệu Hội Phong thứ 8 (1099) triều vua Lý Nhân Tông xây chùa ở núi An Lão. Sách Địa dư huyện Bình Lục của tri huyện Bình Lục Ngô Vị Liễn (nhà in Lê Văn Tân, Hà Nội, năm 1935) cho biết trên núi có chùa thiên tạo bằng đá, 6 pho tượng đá và một bàn cờ tiên. Trịnh Vương đăng sơn có thơ đề. Chùa này có lẽ là ngôi chùa mà sách Việt sử lược nói đến. Chùa này vẫn còn ở trên đỉnh núi An Lão theo nhân dân địa phương cho biết đó là chùa Cao. Chùa được tạo tác bằng cách đục vào đá núi tạo khoảng trống, qui mô nhỏ để làm nơi thờ, mặt chùa quay hướng Đông. Hiện nay trong 6 pho tượng đá chỉ còn hai pho đặt hai bên tam quan ngôi chùa của làng An Lão cũng theo nhân dân cho biết là tượng chùa Cao.

Như vậy có thể khẳng định vào thời Lý đã có chùa ở huyện Bình Lục, nhưng đạo Phật có mặt thì phải từ trước đó rất lâu.

Trước năm 1945, Bình Lục, có 8 tổng gồm 70 xã, thống kê theo sách Địa dư huyện Bình Lục thì có tới 121 ngôi chùa, hầu như thôn nào cũng có chùa, có một số thôn có tới hai chùa. Các tổng có nhiều chùa là tổng Bồ Xá (9 xã) có 25 chùa, tổng Yên Đổ (8 xã) có 18 chùa, tổng Ngọc Lũ (7 xã) có 17 chùa.

Tổ chức của Phật giáo huyện Bình Lục hiện nay theo qui định của trung ương giáo hội Phật giáo Việt Nam. Hội Phật giáo chỉ thành lập ở huyện, không thành lập ở các xã, thị trấn.

Chỉ đạo điều hành Hội Phật giáo huyện giữa hai kỳ Đại hội là Ban Trị sự do Đại hội (5 năm 1 kỳ) bầu ra. Ban Trị sự đương nhiệm có 22 người gồm Trưởng Ban trị sự, 1 phó ban thường trực, 2 phó ban chuyên trách, chánh thư ký và 17 ủy viên.

Các ngôi chùa được coi là cơ sở thờ tự của Phật giáo hiện nay có 83 chùa có sư trụ trì trên tổng số 120 chùa, chia ra 20 Tăng trong đó có 13 Đại Đức, 1 Thượng tọa; 63 Ni, trong đó có 55 Ni sư, 1 Ni trưởng. Về trình độ Phật học được đào tạo: Sơ cấp: 13 người, trung cấp: 44 người, cao đẳng: 6 người, Đại học: 11 người, thạc sĩ, 1 người, chưa qua đào tạo: 9 người.

Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam tồn tại hai hệ phái Đại thừa và Tiểu thừa. Mỗi hệ phái lại gồm nhiều tông phái. Phật giáo ở Bình Lục cũng giống như các địa phương ở miền Bắc theo phật giáo Đại thừa (còn gọi là Bắc Tông, Bắc Truyền). Trong số 83 ngôi chùa có sư trụ trì xác định về tông phái tình hình như sau:

- Không xác định: 13 chùa.

- Chỉ xác định hệ phái Đại thừa (Bắc Tông, Bắc Truyền): chiếm đa số gồm 54 chùa, Tiểu thừa (Nam tông, Nam truyền): 4 chùa.

- Thiền Tông: 2 chùa (chùa thôn đội 6, xã Ngọc Lũ và chùa Vị Thượng, xã Trung Lương).

- Tịnh độ tông: 2 chùa (Chùa Đòng, chùa Thưa xã Hưng Công).

- Lâm Tế: 1 chùa (Chùa An Đề, xã Bối Cầu).

Các ngôi chùa theo hệ phái Đại thừa ở Bình Lục cũng giống nhiều địa phương khác một năm có các ngày lễ, ngày kỷ niệm (tính theo âm lịch) sau:

- Tết Nguyên Đán

- Lễ Thượng nguyên (Rằm tháng giêng).

- Ngày 08/2: Đức Phật Thích Ca xuất gia.

- Ngày 15/02: Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn.

- Ngày 19/02: Khánh đản Đức Quán Thế Âm Bồ Tát.

- Ngày 21/02: Khánh đản Đức Phổ Hiền Bồ Tát.

- Ngày 16/3: Khánh đản Đức Chuẩn Đề Bồ Tát.

- Ngày 04/4: Khánh đản Đức Văn Thù Bồ Tát.

- Ngày 15/4: Đức Phật Thích Ca đản sinh.

- Ngày 13/7: Khánh Đản Đức Đại Thế Chí Bồ Tát.

- Ngày 14/7: Lễ tự tứ.

- Ngày 15/7: Lễ Vu Lan.

- Ngày 30/7: Khánh đản Đức Địa Tạng Bồ Tát.

- Ngày 30/9: Khánh đản Đức Phật Dược sư.

- Ngày 17/11: Khánh đản Đức Phật A Di Đà.

- Ngày 08/12: Đức Phật Thích Ca thành đạo.

Những lễ nghi, kỷ niệm trên chỉ có số ít chùa thực hiện được đầy đủ. Thường các chùa tập trung cho các lễ nghi vào dịp Tết nguyên đán, rằm tháng giêng, ngày Phật đản và ngày rằm tháng 7 (lễ Vu Lan).

Việc thăng giáo phẩm trong giáo hội Phật giáo Việt Nam có sự kết hợp giữa tuổi đời và Lạp. Vì vậy hàng năm vào ba tháng hè (4, 5, 6) các vị sư trụ trì các chùa sắp xếp công việc để dự ba tháng Hạ Lạp, còn gọi là An Cư Kiết Hạ. Trong hoàn cảnh hiện nay các vị tăng, ni vừa phải làm tròn nghĩa vụ công dân, vừa phải hành đạo, kết hợp hài hòa giữa phần đạo, phần đời. Các chức sắc tăng ni của Phật giáo Bình Lục đã tích cực tham gia các phong trào xã hội: Xây dựng nông thôn mới, đền ơn đáp nghĩa, làm từ thiện….

3. Đạo Thiên Chúa

Theo những tư liệu có được, vào khoảng năm 1710, giám mục Louis Néez đại diện tông tòa địa phận Tây Đàng Ngoài đã đến giáo họ Tiêu Viên, xứ Tiêu Thượng, lập cơ sở nhà chung, nhà tràng ở Tiêu Viên. Ngày 19/10/1764 giám mục qua đời. Giám mục Jean Davoust nối quyền coi sóc địa phận đã cho rời nhà chung, nhà tràng về xứ Vĩnh Trị (Ý Yên, Nam Định). Năm 1790 giám mục đã nâng họ Đồng Chuối lên chính xứ, ngày nay gọi là xứ Tiêu Thượng. Năm 1820 giáo miền Tiêu Thượng có 5041 giáo dân được phân làm 6 xứ: Tiêu Thượng, Tiêu Hạ, Đạo Truyền, Bối Kênh, Trung Lương và Kẻ Sông.

Năm 1833 cha Phêrô Trương Văn Thi quê ở Kẻ Sở lúc đó đã 72 tuổi về giáo xứ Kẻ Sông trong bối cảnh vua Minh Mạng cấm đạo rất ngặt nên phải hoạt động bí mật. Đến năm 1846 xứ Kẻ Sông đã có 2712 giáo dân và vào năm 1902 đã có 3150 giáo dân tập trung ở 3 nơi: nhà xứ Hà Ngoại, họ An Tập và họ Đạo Truyền. Sau này, hai giáo họ Đạo Truyền và An Tập đã được tách thành hai xứ độc lập.

Theo truyền thuyết lưu truyền ở giáo xứ Bối Kênh thì họ Kẻ San được đón tin mừng vào khoảng năm 1882. Một hôm, cha Bảy từ giáo xứ Đồng Chuối về họ Kẻ San làm việc mục vụ. Đi qua đình làng Bối Kênh, nơi đây thờ vị Thành hoàng là Cao Quang. Lúc đó dân làng đang làm lễ tế thần vì trong vùng có dịch bệnh hoành hành. Cha Bảy đã vận động dân chúng theo Đức Chúa Trời và bày cho họ cách gìn giữ vệ sinh. Quả nhiên ít lâu sau dịch tả trong làng hết hẳn. Vì thế dân làng Bối Kênh xin theo đạo hết cả làng không sót một ai.

Như vậy đạo Thiên Chúa truyền vào Bình Lục sớm nhất là ở xứ Tiêu Thượng, sau đó là xứ Bói Kênh, các giáo xứ khác ở thời điểm muộn hơn.

Nhà thờ đạo thiên chúa ban đầu xây bằng gỗ, kiến trúc còn đơn giản sau mới dùng vật liệu gạch, ngói, đá và theo kiến trúc các nhà thờ của Pháp như nhà thờ giáo xứ Bối Kênh đã được hoàn thành vào năm 1910. Xứ Tiêu Thượng, năm 1890 xây dựng nhà thờ mới bằng gạch ngói cột gỗ lim vững chắc và được trùng tu vào năm 1985, năm 2006 lại hạ giải và xây cất ngôi thánh đường mới. Nhà thờ giáo xứ Tiêu Hạ được xây dựng theo kiến trúc Gotic Pháp, từ năm 1922 đã trở thành trung tâm văn hóa của làng Tiêu Hạ và giáo xứ Tiêu Hạ.

Giáo dân Bình Lục nói riêng, Hà Nam nói chung tự hào vì là địa phương đã sinh ra vị Hồng y đầu tiên của Việt Nam. Đó là Giuse Maria Trịnh Như Khuê, sinh ngày 11/12/1898, mất ngày 27/11/1978, quê quán xã Tràng Duệ (cũ) nay là Tràng An. Ông được phong chức Linh mục năm 1933, giám mục năm 1950, được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám Quản Tông tòa giáo phận Hà Nội và trở thành vị giám mục người Việt Nam đầu tiên của giáo phận, là một trong số ít giám mục còn lại ở miền Bắc sau năm 1955. Ngày 24/5/1976, giáo hoàng Phaolô VI đã phong chức giám mục hiệu tòa Synaitana, Hồng y linh mục StFrancesco di Daolo of Monti cho Tổng giám mục Giuse Maria Trịnh Như Khuê.

Số giáo dân ở Bình Lục phân bổ ở 14 giáo xứ thuộc hai giáo hạt.

- Giáo hạt Phủ Lý gồm 8 giáo xứ: Bối (Bói) Kênh, Hà Ngoại (Kẻ Sông), Tiêu Thượng (Đồng Chuối Thượng), Tiêu Hạ (Đồng Chuối Hạ), Trung Lương, Đạo Truyền, An Tập và Phù Tải (mới thành lập ngày 01/6/2019).

- Giáo hạt Lý Nhân (thành lập ngày 12/3/2016) gồm 6 giáo xứ: Cát Lại, Ngô Khê, Chợ Nội, Ngọc Lũ và Tử Thanh.

Giáo xứ do linh mục Chánh sứ cai quản, giáo xứ đông giáo dân có thể thêm linh mục phó xứ. Mỗi giáo xứ có “Hội đồng giáo xứ” do giáo dân bầu ra gồm chủ tịch (chánh trương), phó chủ tịch (phó chánh trương) và các ủy viên phụ trách mục vụ của giáo xứ, giúp linh mục sắp đặt công việc trong xứ đạo.

Giáo xứ là một cộng đoàn tín hữu được thiết lập thành đơn vị giáo hội cơ sở trong một địa dư nhất định có tính chất bền vững, có tư cách pháp nhân trong cơ cấu tổ chức giáo hội (giáo hạt không có tư cách này).

Mỗi giáo xứ bao gồm các giáo họ, hiện Bình Lục có 46 giáo họ (giáo họ Ba Hàng thuộc giáo xứ Tiêu Động mới thành lập ngày 01/6/2019). Giáo xứ có nhiều giáo họ là Hà Ngoại (8 giáo họ), Bối Kênh (7 giáo họ), … Điều hành việc đạo ở giáo họ có ban hành giáo do trùm trưởng đứng đầu.

Năm 2019 giáo hội Bình Lục có 9 vị linh mục, tất cả đều được đào tạo tại chủng viện, có trình độ đại học về Kitô học. Vì có 14 giáo xứ nên một số linh mục được phân công quản hai giáo xứ. Các giáo xứ Bói Kênh, Tiêu Hạ, Trung lương có thêm linh mục phó xứ.

Nhà thờ xứ là cơ sở vật chất quan trọng của giáo hội Bình Lục. Nhìn chung phần lớn theo kiến trúc các nhà thờ Pháp, một số nhà thờ pha trộn phong cách kiến trúc dân tộc. Trong 14 nhà thờ xứ hiện nay, nhà thờ có một tháp bằng là chủ yếu. Trong những năm gần gây nhiều nhà thờ họ (nhà nguyện) đã được tu bổ. Có nhà thờ như nhà thờ họ Tiên Lý (xã Đồn Xá) qui mô kiến trúc chẳng thua kém nhà thờ xứ.

Đạo Thiên Chúa có luật lệ và lễ nghi rất chặt chẽ. Các giáo dân phải giữ được 10 điều răn của Đức chúa Trời, 6 điều răn của giáo hội và 21 điều qui định đối với chính mình.

Lễ nghi Thiên Chúa giáo có 7 phép Bí tích cơ bản: Bí tích Thánh Tẩy (rửa tội), Bí tích Thánh Thể (Lễ Misa), Bí tích giải tội, Bí tích sức dầu Thánh, Bí tích truyền chức Thánh, Bí tích thêm sức, Bí tích hôn phối, trong đó 3 bí tích quan trọng nhất là: Bí tích thánh tẩy, Bí tích thánh thể và Bí tích hôn phối.

Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, một năm đạo Thiên Chúa ở Bình Lục nói riêng, Việt Nam nói chung có 4 ngày lễ trọng (lớn) liên quan đến cuộc đời chúa Giê Su, được dân gian gọi là Tứ quí: Lễ sinh nhật chúa Giêsu, ngày 25/12; Lễ phục sinh, kỉ niệm chúa Giêsu sống lại, Lễ chúa Giêsu lên trời, Lễ chúa thánh thần hiện xuống.

Hiện tại có 6 ngày lễ trọng, buộc giáo dân phải tham dự (lễ buộc).

- Lễ chúa giáng sinh, ngày 25/12

- Lễ phục sinh, vào một ngày của tháng 4.

- Lễ chúa Giêsu lên trời, sau lễ phục sinh 40 ngày.

- Lễ chúa thánh thần hiện xuống, sau lễ chúa Giêsu lên trời 10 ngày.

- Lễ Đức bà Maria, hồn và xác lên trời, ngày 15/8.

- Lễ các thánh ngày 01/11.

Ngoài ra còn một số ngày lễ không phải là lễ trọng nhưng vẫn được đông đảo tín đồ tham dự:

- Lễ Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội, ngày 8/12.

- Lễ Tro (đầu mùa chay), cử hành vào thứ tư nào là tùy thuộc lễ Phục sinh được mừng vào ngày nào.

- Tuần Thánh, bắt đầu tư chủ nhật lễ Lá đến chủ nhật phục sinh. Trong tuần thánh có những ngày lễ riêng. Lễ truyền phép mình thánh vào thứ 5. Lễ chúa Giêsu chịu chết vào thứ 6, lễ Vọng phục sinh vào thứ 7. Lễ mừng phục sinh vào chủ nhật.

- Lễ Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, ngày 29/6.

- Lễ cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục, ngày 02/11.

Những hoạt động thánh lễ trên trong một năm gọi là năm phụng vụ, gồm có: Kỳ giáng sinh gồm hai mùa: mùa vọng, mùa giáng sinh, kỳ phục sinh gồm hai mùa: mùa chay, mùa phục sinh. Mùa thường niên bị cắt làm hai giai đoạn: Giai đoạn đầu nằm giữa mùa giáng sinh và mùa chay. Giai đoạn hai nằm giữa mùa phục sinh và mùa vọng.

Ngoài các lễ nghi, ngày lễ, giáo dân Bình Lục còn tổ chức các sinh hoạt văn hóa tôn giáo khác.

- Lễ Thánh quan thầy xứ đạo, theo quan niệm của đạo thiên chúa là thánh coi sóc bản mệnh tín đồ của xứ đạo. Mỗi xứ đạo đều có thánh quan thầy và ngày lễ kỷ niệm thánh quan thầy. Tuy không phải là lễ trọng lễ buộc nhưng ngày lễ thánh quan thầy thường được tổ chức như ngày hội lớn, có rước kiệu thánh quan thầy, tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao.

- Chầu lượt là lễ chầu Thánh thể của một họ đạo, một xứ đạo thay mặt cho địa phận chầu Thánh thể một cách trọng đại, thường được tổ chức trong 3 ngày, cũng giống như lễ thánh quan thầy, chầu lượt thật sự là ngày hội của xứ, họ đạo.

- Tế giao thừa ở nhà thờ.

Mấy chục năm gần đây, trong tinh thần cởi mở của giáo hoàng Giăng Paul II cho phép giáo dân, các giáo xứ được thực hiện các phong tục tập quán dân tộc, giáo dân Bình Lục nói riêng và cả nước nói chung đã tiến hành lễ đón giao thừa, mừng Tết Nguyên đán tại nhà thờ, được tổ chức trang nghiêm, trọng thể. Phần tế do Chánh trương, trùm trưởng trong xứ đạo đảm nhiệm.

4. Nho giáo và Đạo giáo

a) Nho giáo

Nho giáo, còn gọi là đạo nho, đạo khổng do Khổng Tử sáng lập và được các môn đồ phát triển. Đó là một hệ thống đạo đức, triết lý xã hội, giáo dục, chính trị nhằm xây dựng một xã hội hài hòa, thái bình, thịnh vượng. Những người thực hiện các tín điều gọi là nhà nho, nho sĩ, nho sinh.

Nho giáo rất có ảnh hưởng ở Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam.

Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ đầu công nguyên để lại dấu ấn sâu đậm. Năm 1076 Văn miếu thờ Khổng Tử và 72 vị tiên hiền Nho giáo đã được xây dựng ở kinh thành Thăng Long.

Cùng với quá trình lan truyền ở vùng Đồng bằng sông Hồng, Nho giáo có mặt trên địa bàn Bình Lục từ rất sớm, mà một trong những thể hiện là nền khoa cử. Nhân dân Bình Lục có truyền thống hiếu học tuy đời sống khó khăn vẫn vươn lên đạt kết quả cao trong thi cử. Truyền thuyết ở làng An Lão còn lưu truyền tấm gương Nguyễn Kỳ. Nhà rất nghèo, bố mất sớm, mẹ mò cua bắt ốc nuôi ông ăn học. Với ý chí vượt khó ông đã đỗ tiến sĩ được triều đình bổ giữ chức Tế tửu Văn Miếu Quốc Tử Giám Thăng Long.

Các sĩ tử Bình Lục thời phong kiến sau khi đỗ ở trường thi trấn Sơn Nam đã lên kinh đô dự thi Hội, thi đình, Bình Lục có 26 nhà khoa bảng đỗ Đại khoa từ thời Lý đến thời Nguyễn. Tam Nguyên, Yên Đổ Nguyễn Khuyến đỗ đầu cả 3 kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình.

Khoa thi Nho học cuối cùng là vào năm 1929 và nền giáo dục Pháp Việt thay thế. Tuy nhiên ảnh hưởng của Nho giáo không vì thế mà chấm dứt. Các yếu tố cốt lõi của Nho giáo trong đời sống xã hội như hiếu, đễ, ngũ thường (Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín)… vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Một trong những nguyên lý giáo dục của Nho học “Tiên học lễ, hậu học văn” đã được nền giáo dục hiện nay vận dụng.

Ở các làng xã Bình Lục, trước năm 1945 nhiều nơi có văn chỉ, văn từ thờ Khổng Tử và các vị khoa bảng địa phương. Theo sách Địa dư huyện Bình Lục của Ngô Vi Liễn, trên địa bàn Bình Lục có 20 văn từ văn chỉ. Đó là văn chỉ thôn Cát Lại, thôn Sanh xã Bình Nghĩa, văn từ xã An Bài (Đồng Du), văn từ thôn Thượng Thọ, văn từ thôn Lương Ý, Văn Chỉ thôn La Cầu xã Mỹ Thọ; văn chỉ thôn Tập Mỹ, văn chỉ thôn Đồng Xuân, văn chỉ thôn Đước xã Tiêu Động, văn chỉ thôn Hưng Công (xã Hưng Công), văn chỉ thôn Đội, thôn Gòi Hạ xã An Nội, văn chỉ thôn Thành Thị (xã Vũ Bản). Đặc biệt Vụ Bản (cũ) nay thuộc xã Vũ Bản có tòa ăn từ chung cho cả xã và 3 văn chỉ ở 3 thôn: Xuân Mai, Đồng Quê, Gia Hội.

b) Đạo giáo

Đạo giáo gốc từ Trung Quốc (còn gọi là Lão giáo) do Lão Tử sáng lập, mà cốt lõi là tư tưởng “Vô vi”. Nhưng khi vào Việt Nam thì đạo này tiếp thu nhiều yếu tố của tín ngưỡng dân gian và vẫn hình thành hai phái: Đạo giáo thần tiên và Đạo giáo phù thủy.

Sự có mặt của Đạo giáo ở Việt Nam, đồng thời với Nho giáo phát triển rộng ở những thế kỷ đầu. Đến thời Hậu Lê, nhà nước phong kiến chủ trương đề cao Nho giáo, hạn chế Phật giáo và Đạo giáo nên đạo này bị cản trở và sa sút.

Giống như Nho giáo, Đạo giáo từ lâu đã không còn tồn tại với tư cách một tôn giáo, song những mảnh vụn của nó như thuật trừ tà ma, phù phép chữa bệnh và dấu tích vật chất vẫn còn hiện diện.

Trên đỉnh núi An Lão (xã An Lão) có tảng đá tương truyền là bàn cờ tiên, đó là ảnh hưởng của phái Đạo giáo thần tiên.

Hiện còn tồn tại 12 điếm thờ quan ngũ hổ mang đậm tính chất Đạo giáo ở xã Ngọc Lũ.

Trong Phật điện của nhiều chùa ở Bình Lục có tượng Ngọc Hoàng (ngồi giữa) và Nam Tào, Bắc Đẩu (hai bên). Đây là những nhân vật của Đạo giáo. Không loại trừ khả năng có ngôi chùa trước kia vốn là quán đạo giáo đã được cải tạo, sửa chữa, đưa tượng Phật, Bồ Tát vào thờ.

Địa chí Huyện Bình Lục

Bình luận bài viết

Bình luận

BÁO HÀ NAM ĐIỆN TỬ

Giấy phép xuất bản số 68/GP-BTTTT do Bộ Thông tin - Truyền thông cấp ngày 16/2/2017

Địa chỉ: Đình Tràng, phường Lam Hạ, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam

Tổng Biên tập: Nguyễn Duy Tuấn

Điện thoại: (0226) 3852.773 - 3853.342 | Fax: (0226)3853.342

Email: baohanam.dientu@gmail.com

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Nha khoa Daisy