Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954), đất nước tạm thời bị chia cắt, để giữ vững liên lạc giữa hai miền, bảo đảm cho Trung ương Đảng chỉ đạo phong trào cách mạng miền Nam, ta mới chỉ có một tuyến đường qua miền tây Quảng Trị, nhưng không đáp ứng được yêu cầu vận tải số lượng lớn. Tháng 1/1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 khẳng định: nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam; phương pháp cách mạng, phương thức đấu tranh là dùng bạo lực cách mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang...
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15, ngày 19/5/1959, Tổng Quân ủy chính thức giao cho “Đoàn công tác quân sự đặc biệt” nhiệm vụ mở đường vận chuyển hàng quân sự, đưa bộ đội từ Bắc vào Nam và ngược lại. Ngay trong năm 1959, Đoàn có nhiệm vụ bảo đảm giao thông, liên lạc, vận chuyển 7.000 súng bộ binh, đưa 500 cán bộ, chiến sĩ (CBCS) vào chiến trường làm nòng cốt xây dựng lực lượng chủ lực. Biên chế bước đầu của Đoàn là 500 CBCS, tổ chức thành Tiểu đoàn vận tải 301 và bộ phận: xây dựng kho, bao gói hàng, sửa chữa vũ khí, chế biến thực phẩm. Ra đời tháng 5/1959, đoàn mang phiên hiệu Đoàn 559; con đường khai sinh đúng sinh nhật Bác nên được mang tên đường Hồ Chí Minh.
Tháng 6/1959, Đoàn 559 khảo sát mở tuyến vào Nam, bắt đầu từ Khe Hó (Vĩnh Linh) phát triển về hướng tây nam, điểm cuối là Pa Lin, gần trạm tiếp nhận của Khu 5. Để bảo đảm tuyệt đối bí mật, khẩu hiệu hành động của đoàn là: “Ở không nhà, đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”. Ngày 20/8/1959, chuyến hàng đầu tiên đã đến chiến trường Trị Thiên (tại Tà Riệp) thể hiện quyết tâm của Đảng, tình cảm của Bác Hồ, quân, dân miền Bắc gửi đồng bào, chiến sĩ miền Nam. Từ đây, khởi đầu sự phát triển nhanh chóng của Đoàn 559-Bộ đội Trường Sơn và hệ thống đường Hồ Chí Minh với những giai đoạn lịch sử vô cùng ấn tượng.
* Giai đoạn 1960-1964: Thực hiện chủ trương đẩy mạnh chi viện chiến trường, tháng 11/1960, Bộ Tổng Tham mưu quyết định thành lập Đoàn 70 (nòng cốt là Tiểu đoàn 301); đồng thời thay đổi phương thức hoạt động (từ phòng tránh bị động tiến tới phòng tránh tích cực) với phương châm: “Đánh địch mà đi, đánh địch để vận chuyển”. Cùng với tuyến giao liên vận tải quân sự từ miền Bắc mở dọc Trường Sơn về phía Nam, ở Trung Bộ, nhiều đường giao liên được mở vào các căn cứ Tây Nguyên và từ Đông Nam Bộ nhiều tuyến đường được phát triển ra Bắc. Mùa khô 1960-1961, Đoàn 559 đã vận chuyển vào chiến trường 30 tấn vũ khí, bảo đảm lương thực cho 2.000 CBCS, có hàng dự trữ... được Bác Hồ động viên, khen ngợi.
Ngày 31/1/1961, Bộ Chính trị ra nghị quyết về nhiệm vụ quân sự 5 năm (1961-1965), trong đó có nhiệm vụ: Mở rộng hành lang, nâng dần quy mô, khối lượng vận chuyển từ Bắc vào Nam. Do địch đánh phá ngày càng ác liệt, Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào nhất trí với đề nghị của ta mở đường vận tải trên đất bạn, đồng thời vận chuyển cả hàng của bạn tới Nam Lào. Ngày 23/10/1961, Đoàn 559 được phát triển thành cấp sư đoàn (6.000 người). Đến cuối năm 1964, bộ đội 559 cùng thanh niên xung phong (TNXP), công nhân giao thông đã xây dựng nhiều trục đường gùi thồ, một trục đường cơ giới Tây Trường Sơn. Sau hơn 5 năm hoạt động, quân số Đoàn 559 lên đến 8.000 người. Kết thúc năm 1964, Đoàn 559 đã đưa đón 17.467 CBCS vào chiến trường.
* Giai đoạn 1965 - 1968: Ngày 3/4/1965, Thường trực Quân ủy Trung ương ra nghị quyết tăng cường nhiệm vụ, tổ chức Đoàn 559. Theo đó, nhiệm vụ của Đoàn 559 là mở đường; vận chuyển chi viện chiến trường miền Nam, Hạ Lào; bảo đảm vật chất, an toàn cho các lực lượng hành quân, bảo vệ hành lang, chống địch tập kích; phối hợp củng cố vùng giải phóng dọc hành lang. Bộ Tư lệnh 559 gồm các lực lượng: Mở đường mới, sửa chữa đường cũ; vận chuyển, giữ kho; bảo vệ; thông tin, quân y; Đảng ủy-Bộ Tư lệnh Đoàn 559 tương đương cấp quân khu trực thuộc Quân ủy Trung ương. Tháng 2/1966, Bộ Tư lệnh 559 tổ chức thành 8 binh trạm gắn với 8 tiểu đoàn công binh. Mùa khô 1966-1967, hệ thống cầu đường được đổi mới cơ bản trong thế trận hiệp đồng chiến đấu giữa các quân, binh chủng, nhờ đó khối lượng vận chuyển chi viện miền Nam tăng 25 lần, cho bạn Lào tăng 12 lần, đưa bộ đội vào chiến trường tăng 2,5 lần...
Cuối năm 1967, Đoàn 559 đã xây dựng được 2.959km đường ô tô (trục dọc chính, dọc phụ, đường ngang, đường vòng tránh, đường vào kho...), phục vụ đắc lực công tác chuẩn bị Tổng tiến công, nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Năm 1968, Đoàn 559 có 25 binh trạm, 23 trung đoàn; quân số 80.000 người.
* Giai đoạn 1969 - 1972: Mùa khô 1968-1969, hệ thống đường Trường Sơn không chỉ phát triển vào Nam Bộ, Tây Nguyên mà còn phát triển mạnh ra Bắc. Tháng 7/1970, Bộ Tư lệnh 559 đổi thành Bộ Tư lệnh Trường Sơn; các binh trạm được tổ chức thành 8 sư đoàn, 1 đoàn chuyên gia, 16 trung đoàn... Tháng 7/1971, Bộ Tư lệnh Trường Sơn tổ chức thành: 5 bộ tư lệnh khu vực; 14 trung đoàn công binh, ô tô, phòng không, đường ống xăng dầu, thông tin; 6 binh trạm; 4 quân y viện...; đồng thời được bổ sung 61 tiểu đoàn, nâng tổng quân số lên 92.000 bộ đội, TNXP, dân công hỏa tuyến, công nhân giao thông.
Ngày 5/5/1971, Bộ Tư lệnh Trường Sơn huy động lực lượng đồng loạt ra quân mở “đường kín” (dưới tán cây rừng). Cuối năm 1971, toàn tuyến đã mở 1.190km “đường kín”, tạo thế vận chuyển mới trên đường Hồ Chí Minh. Cuối năm 1972, ta đã xây dựng được một mạng đường giao thông vận tải chiến lược gồm nhiều trục dọc, ngang, đường vòng tránh, hình thành hệ thống đường cho các loại xe cơ giới, với tổng chiều dài 11.000km, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược 1972, buộc Mỹ, ngụy phải ký Hiệp định Pa-ri, đồng thời góp phần vào thắng lợi trong cuộc tiến công chiến lược của quân, dân Lào, buộc địch phải ký Hiệp định Viêng Chăn.
* Giai đoạn 1973 - 1975: Đầu năm 1973, lực lượng công binh đồng loạt triển khai nhiệm vụ mở rộng đường, bảo đảm tăng cường hơn nữa năng lực vận chuyển. Năm 1974, Bộ Tư lệnh Trường Sơn có 8 sư đoàn, 20 trung đoàn, hàng chục tiểu đoàn, quân số lên đến 100.495 người, duy trì hoạt động cả mùa khô, mùa mưa, bảo đảm cho tất cả binh khí kỹ thuật cơ động trong đội hình hành quân của các quân đoàn, binh chủng hợp thành.
Từ khi ra đời đến Tổng tiến công, nổi dậy Xuân 1975, đường Hồ Chí Minh không ngừng phát triển với tổng chiều dài 17.000km (5 trục dọc, 21 trục ngang); đường giao liên (3.000km); đường ống xăng dầu (1.400km); hệ thống đường vòng tránh, vượt khẩu, đường sông, thông tin liên lạc, cung, binh trạm, kho tàng, bến bãi, trạm bảo dưỡng, sửa chữa... trong thế trận ngày càng hoàn chỉnh, đáp ứng yêu cầu không ngừng tăng của chiến trường. Nếu 6 tháng cuối năm 1959, Đoàn 559 vận chuyển được 32 tấn vũ khí thì trong Tổng tiến công, nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, lượng hàng đưa đến chiến trường là: 27.900 tấn, hàng vạn CBCS, đơn vị kỹ thuật. Trong tiến công chiến lược 1972, lượng hàng vận chuyển là 66.500 tấn. Trong hai năm chuẩn bị Tổng tiến công, nổi dậy Xuân 1975, lượng hàng giao cho các chiến trường là 403.300 tấn. Tính chung cuộc kháng chiến chống Mỹ, Bộ đội Trường Sơn, qua tuyến đường Hồ Chí Minh đã vận chuyển trên 1,5 triệu tấn hàng hóa, 5,5 triệu tấn xăng dầu, đưa 1,1 triệu lượt CBCS vào chiến trường, 650.000 lượt CBCS từ chiến trường ra Bắc. Đường Hồ Chí Minh còn là hậu phương trực tiếp, bàn đạp xuất kích của các binh đoàn chủ lực tiến công ra các hướng chiến dịch, chiến lược quan trọng. Trong Tổng tiến công, nổi dậy Xuân 1975, Bộ đội Trường Sơn đã nhanh chóng vận chuyển các binh đoàn chủ lực cùng khối lượng cơ sở vật chất kỹ thuật lớn tới chiến trường; bám sát các mũi tiến công, tháo gỡ bom mìn, sửa chữa, bắc cầu cho đại quân ta tiến vào giải phóng các thành phố, thị xã, giải phóng Sài Gòn trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Tuyến đường huyền thoại Hồ Chí Minh là nơi đọ sức quyết liệt giữa ta và địch. Không quân Mỹ, ngụy đánh phá 151.800 trận, sử dụng 733.000 lần chiếc máy bay, 4 triệu tấn bom đạn, các loại bom từ trường, la-de, “cây nhiệt đới”, chất độc hóa học…Về phía ta, với tinh thần “Sống bám đường, chết kiên cường dũng cảm”, “Máu có thể đổ, đường không thể tắc”, trong 16 năm bộ đội, TNXP, dân công hỏa tuyến Trường Sơn đã chiến đấu trên 2.500 trận, diệt 17.000 tên địch, bắt, gọi hàng trên 11.200 tên, bắn rơi 2.455 máy bay, phá hủy hàng vạn tấn vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch. Để giành thắng lợi vẻ vang đó, hơn 2 vạn CBCS, TNXP đã hy sinh, gần 3 vạn người bị thương, hàng nghìn người bị ảnh hưởng chất độc da cam.
Đường Hồ Chí Minh-biểu tượng sáng ngời về tình đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của ba nước Việt Nam-Lào-Campuchia; sự giúp đỡ to lớn của bạn bè quốc tế. Trong quá trình đế quốc Mỹ mở rộng cuộc chiến ra toàn Đông Dương, đường Trường Sơn đã không ngừng phát triển, đi qua 20 tỉnh, kết nối các chiến trường, tuyến vận tải của ba nước, tạo nên một hệ thống liên hoàn bền vững.
Đường Hồ Chí Minh và hoạt động tác chiến, mở đường của Bộ đội Trường Sơn đã góp phần phát triển khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam. Lần đầu tiên, một tuyến đường vận tải chiến lược được xây dựng hoàn chỉnh để chi viện chiến trường với sự đa dạng thành phần, hoạt động tác chiến, nghệ thuật tổ chức lực lượng, hệ thống lãnh đạo, chỉ huy, hệ thống đường, cung, binh trạm, kho tàng, bến bãi; nghệ thuật đánh địch, mở đường, bảo đảm hành quân, giao thông, vận chuyển; nghệ thuật vận dụng sáng tạo đường lối chính trị, quân sự, chiến tranh nhân dân Việt Nam; nghệ thuật tiến hành công tác đảng, công tác chính trị, xây dựng ý chí quyết chiến, quyết thắng cho các lực lượng, phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vượt qua gian khổ, hy sinh, góp phần cùng toàn dân, toàn quân giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Thế Vĩnh (Tổng hợp)