Tổ ngoại Tam Nguyên Yên Đổ, Hoàng giáp Trần Hữu Thành

Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến (1835-1909) quê xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Nguyễn Khuyến được sinh ra ở quê ngoại làng Ngòi, đất Văn Khê, nay thuộc xã Yên Trung, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Đến 8 tuổi mới theo cha về quê nội làng Và. Nguyễn Khuyến là hậu duệ bên ngoại của Hoàng giáp Trần Hữu Thành (1557-1635).

Thừa hưởng ân đức của hai bên nội, ngoại đều có truyền thống học hành khoa bảng, cùng với nỗ lực bản thân Nguyễn Khuyến đã trở thành danh nhân nổi tiếng. Bên nội, có cụ liệt tổ Quang Lượng Hầu, Đại tướng nhà Mạc, đến cụ nội, tiến sĩ nhà thơ Nguyễn Tông Mại đăng quang khoa Bính Thìn năm Vĩnh Hựu thứ hai, giữ chức Hàn lâm viện đại chế, Hiến sát sứ Thanh Hoa, người được nhắc đến trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Bên ngoại, có Đệ nhị giáp Tiến sĩ Trần Hữu Thành (1557- 1635) đăng khoa khi mới 28 tuổi, đời vua Mạc Mậu Hợp, làm quan đến chức Đề hình Giám sát ngự sử.

Tổ ngoại Tam Nguyên Yên Đổ Hoàng giáp Trần Hữu Thành
Từ đường Nguyễn Khuyến, xã Trung Lương (Bình Lục). Ảnh: Thế Tân

Họ Trần sinh cơ lập nghiệp ở trấn Sơn Nam đã gần 500 năm, con cháu nay ở khắp nơi thường tụ hội về các từ đường Trần tộc ở làng Ngòi, thôn Văn Mỹ, xã Yên Trung và thôn Đào Lãng nay là thôn An Hạ, xã Yên Đồng cùng huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định và nhà thờ Trần tộc ở thôn Đùng, xã Liêm Sơn, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
Vào đời thứ tư, danh tiếng cử nhân Trần Hữu Tập mở trường dạy học, thu hút được nhiều môn sinh gần xa. Ngày ấy, anh khóa Nguyễn Tông Khởi từ làng Và đất đồng chiêm Bình Lục, lặn lội sang đất Ý Yên theo học cửa thầy, anh khóa được thầy gả con gái là Trần Thị Thoan (bà sinh năm 1799). Đôi vợ chồng trẻ nương nhờ bên ngoại, con rể được nhạc phụ  truyền thụ kiến thức, song trải qua ba kỳ thi hương mà chỉ đỗ tú tài gọi là ông mền Liễn, sau làm nghề dạy học. Năm Ất Mùi (1835), vợ chồng trẻ sinh con trai, cả nhà ai cũng mừng, ông ngoại đặt tên cháu là Nguyễn Thắng. Tuổi thơ Nguyễn Thắng được ông bà bên ngoại bảo ban theo đòi nghiên bút, từ nhỏ đã bộc lộ năng khiếu văn chương. Đến khi lên 8 tuổi (1843), Nguyễn Thắng theo cha mẹ về bên quê nội làng Và, xã Trung Lương, huyện Bình Lục. Chẳng bao lâu người cha  qua đời, gia cảnh bần hàn, người mẹ thắt lưng buộc bụng nuôi con ăn học, khuyên con gắng công đèn sách, lại mấy khoa thi chưa đỗ, Nguyễn Thắng đổi tên là Nguyễn Khuyến, chữ Khuyến có bộ lực nhưng lớn hơn để tỏ rõ quyết chí ý chí học hành tiến thân. Năm Tân Mùi (1871) Nguyễn Khuyến vào kinh đô Huế thi hội, thi đình, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ (Hoàng giáp). Do đỗ đầu cả ba kỳ thi, nên được người đời xưng tụng là Tam Nguyên Yên Đổ, trở thành nhà thơ nổi tiếng. Ngày con vinh quy bái tổ, bà mẹ thỏa lòng mãn nguyện thấy con trưởng thành làm nên sự nghiệp. 

Dòng họ Trần ở làng Ngòi có nhiều trai tài, gái sắc. Các cụ truyền lại thời Lê - Trịnh có bà con gái họ Trần là phu nhân Đô đốc dưới quyền chúa Trịnh. Bà có nhiều công quả với dân làng.

Theo các thư tịch Hán - Nôm, các cụ tổ họ Trần về đất Đào Lãng ban đầu là Trần Dĩ Hòa, Trần Dĩ Hiếu, các cụ đều nghĩ việc canh nông làm gốc, chăm lo đèn sách. Được 5, 6 đời mới đến các cụ Trần Hữu Học, Trần Hữu Tập, Trần Hữu Thứ, Trần Hữu Đạo. Cụ Trần Hữu Thành là con thứ ba của cụ Trần Hữu Học, trong các vị này chỉ có cụ Hữu Học là cố thủ ở đất Đào Lãng, còn các chi thì tản ra các vùng đất huyện Nam Trực cư trú.

Tổ ngoại Tam Nguyên Yên Đổ Hoàng giáp Trần Hữu Thành
Ảnh bìa cuốn sách Sơn Nam phong vật chí của Tiến sĩ Hà Tông Quyền.

Theo sách Nghĩa Hưng chí của Tri phủ Nguyễn Huy Tường, soạn năm Khải Định thứ 9  (1924), cho biết Hoàng giáp Trần Hữu Thành sinh ngày 10 tháng Giêng (1557) trước cửa đền thờ thần Tản Viên, được bà hàng xóm là Vũ Thị Thiện cũng đang kỳ đến cữ đi chợ rước hai mẹ con lên xe đưa về, đến nhà thì bà Vũ Thị Thiện cũng chuyển dạ sinh được một người con trai. Thầy đồ trong làng là ông hương sư họ Nguyễn đặt tên cho hai trẻ là Thành và Đạt lớn lên coi như ruột thịt. Hữu Thành ở lại đất Đào Lãng, còn Hữu Đạt, thì về đất Tân Liêu nay thuộc xã Yên Lương, huyện Ý Yên. Sự kiện này thấy ghi trong sách Ninh Cường khẩn điền chí (ghi chép về việc khẩn hoang đất Ninh Cường) của tiến sĩ Vũ Duy Trác.

Theo khảo cứu của ông Trần Khánh Dư, nguyên Vụ trưởng Vụ Phật giáo, Ban Tôn giáo Chính phủ, Giám đốc Trung tâm bảo tồn di sản văn hóa tôn giáo (hậu duệ đời thứ 10), khi người cha mất sớm, Trần Hữu Thành và các em được người mẹ tần tảo nuôi cho ăn học, hai người em cũng đỗ tiến sĩ, nhưng chưa rõ năm nào. Chính Trần Hữu Thành đã đổi tên làng Ngòi thành làng Văn Khê  (Khê  cũng có nghĩa là Ngòi), nay là làng Văn Mỹ.

Năm Bính Tuất (1586) đời vua Mạc Mậu Hợp, niên hiệu Đoan Thái, cử nhân Trần Hữu Thành đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (tức Hoàng Giáp). Theo sách Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075-1919) do Ngô Đức Thọ chủ biên, Nhà xuất bản Văn học Hà Nội (1993), nhà Mạc đã tổ chức được 14 khoa thi hội, theo chế độ khoa cử của Triều Lê sơ và thời Lê Thánh Tông. Khoa Bính Tuất năm Đoan Thái thứ nhất (1586), phúc khảo ở trường Giảng Võ, Thăng Long, lấy đỗ 23 vị, Trần Hữu Thành là một trong ba người đỗ Tiến sĩ xuất thân, năm ấy ông mới 28 tuổi, trước cả tuổi “tam thập nhi lập” được người xưa cho là vững trong trường đời, hướng cho sự nghiệp. 

Để đạt được ngôi vị đề danh bảng vàng, Trần Hữu Thành phải có vốn học lực đạt được đẳng đệ trong khoa giáp, ông được ca tụng là Quỳnh uyển Tao đàn huynh giáp bảng nghĩa là Quỳnh uyển tao đàn đầu hàng giáp.

 Ông làm quan đến chức Đề hình Giám sát ngự sử. Theo khảo cứu của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Văn Khoái, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, chức này giám sát bộ Hình, ngục quan, về việc thực thi pháp luật, xét xử. Người được bổ nhiệm chức quan này phải có nhiều năng lực, học hạnh, học nghiệp đảm được nhiều việc như kiểm soát, giám thí, giám khảo trường thi, đến việc bang giao, tuế cống... Quan Đề hình Giám sát ngự sử trực tiếp vào chầu vua và dâng nhiều lời tâu góp phần quan trọng vào việc giữ gìn kỷ cương phép nước và bảo vệ dân lành. 

Với chức Đông đạo tướng quân (chỉ huy một phủ trong ngũ quân) Trần Hữu Thành đã đề xuất với triều đình gia cố thành Thăng Long, sai các xứ đào hào, đắp lũy, trồng tre gai dài hàng trăm dặm, lũy đất ở ngoài thành Đại La từ Nhật Chiêu qua Tây Hồ đến bến Thanh Trì để phòng thủ lâu dài. Làm quan với Triều Mạc, sau trở về Triều Lê Trung Hưng và cuối đời ông đi ẩn cư ở vùng biển Nghĩa Hưng. Tại nơi khẩn hoang, ông khuyên dân đắp đê, trồng cói, dệt chiếu..., lập nên 9 xã ở vùng Hải Lãng Trang xuống tới đất Liễu Đề... một vùng Đông - Tây dài hàng chục dặm được ông biên chế ra thành làng xóm, thiết lập chế độ tự quản, trở thành vùng dân cư trù phú làm phên giậu phía Đông của triều đình. Nhớ ơn vị phúc thần, có công lập làng, các nơi dân làng lập đền thờ để nhớ vị điền chủ. 

Nay, ở đình thôn Đào Lạng, xã Nghĩa Thái, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh còn thờ các vị tổ có công khai canh, lấn biển, lập làng, trong đó có thờ Hoàng giáp Trần Hữu Thành và nhà sử học nổi tiếng thời Lê, Lê Tung (Dương Bang Bản) quê thôn An Cừ nay là xã Liêm Thuận, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam... 

Nguyễn Thế Vinh

Bình luận bài viết

Bình luận

BÁO HÀ NAM ĐIỆN TỬ

Giấy phép xuất bản số 68/GP-BTTTT do Bộ Thông tin - Truyền thông cấp ngày 16/2/2017

Địa chỉ: Đình Tràng, phường Lam Hạ, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam

Tổng Biên tập: Nguyễn Duy Tuấn

Điện thoại: (0226) 3852.773 - 3853.342 | Fax: (0226)3853.342

Email: baohanam.dientu@gmail.com

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Nha khoa Daisy