Bộ Y tế vừa ban hành Hướng dẫn điều trị COVID-19 ở trẻ em; trong đó những trẻ béo phì, có bệnh nền... dễ có nguy cơ diễn biến nặng.
Theo Hướng dẫn của Bộ Y tế, đặc điểm lâm sàng của bệnh nhi mắc COVID-19 thường có các triệu chứng như: Thời gian ủ bệnh từ 2 -14 ngày, trung bình là 4 - 5 ngày. Trong quá trình khởi phát, trẻ có một hay nhiều triệu chứng như: Sốt, mệt mỏi, đau đầu, ho khan, đau họng, nghẹt mũi/sổ mũi, mất vị giác/khứu giác, nôn và tiêu chảy, đau cơ... tuy nhiên trẻ thường không có triệu chứng.
Các triệu chứng lâm sàng ở trẻ mắc COVID-19 thường gặp là: Sốt (chiếm 63%), ho (34%), buồn nôn hoặc nôn (20%), ỉa chảy (20%), khó thở (18%), triệu chứng mũi họng (17%), phát ban (17%), mệt mỏi (16%), đau bụng (15%), triệu chứng giống Kawasaki (13%), không có triệu chứng (13%), triệu chứng thần kinh (12%), kết mạc (11%) và họng đỏ (9%).
Trẻ cũng gặp các triệu chứng khác (ít gặp hơn) như: Tổn thương da niêm (hồng ban các đầu ngón chi, nổi ban da...); rối loạn nhịp tim; tổn thương thận cấp; viêm thanh mạc (tràn dịch màng phổi, tràn dịch màng bụng, tràn dịch màng tim); gan to, viêm gan; bệnh não (co giật, hôn mê hoặc viêm não).
Theo đó, hầu hết trẻ chỉ bị viêm đường hô hấp trên với sốt nhẹ, ho, đau họng, sổ mũi, mệt mỏi; hay viêm phổi và thường tự hồi phục sau khoảng 1-2 tuần. Có khoảng 2% trẻ có diễn tiến nặng, thường vào ngày thứ 5- ngày thứ 8 của bệnh. Trong đó, một số trẻ (khoảng 0,7%) cần điều trị tại các đơn vị hồi sức tích cực với các biến chứng nặng như: hội chứng nguy kịch hô hấp cấp (ARDS), viêm cơ tim, nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm trùng, và hội chứng viêm đa hệ thống (MIS-C). Các yếu tố tiên lượng nặng trẻ béo phì, trẻ chậm phát triển, bại não, bệnh phổi mạn, suy giảm miễn dịch, đái tháo đường, tim bẩm sinh... Tỷ lệ tử vong ở trẻ rất thấp (< 0,1%), hầu hết tử vong do bệnh nền.
Trong thời kỳ hồi phục (thường trong giai đoạn từ ngày thứ 7-10 ngày), nếu không có các biến chứng nặng trẻ sẽ hết dần các triệu chứng lâm sàng và khỏi bệnh.
Theo Bộ Y tế, các yếu tố nguy cơ khiến trẻ mắc bệnh dễ diễn biến nặng là: Trẻ đẻ non, cân nặng thấp; béo phì, thừa cân; đái tháo đường, các bệnh lý gene và rối loạn chuyển hoá; trẻ mắc các bệnh lý phổi mạn tính, hen phế quản; bệnh ung thư (đặc biệt là các khối u ác tính về huyết học, ung thư phổi...); bệnh thận mạn tính; trẻ ghép tạng hoặc cấy ghép tế bào gốc tạo máu; bệnh tim mạch (tim bẩm sinh, suy tim, tăng áp phổi, bệnh động mạch vành hoặc bệnh cơ tim, tăng huyết áp); bệnh lý thần kinh (bao gồm cả chứng sa sút trí tuệ, rối loạn tâm thần); bệnh hồng cầu hình liềm, bệnh thalassemia, bệnh huyết học mạn tính khác - Các bệnh lý suy giảm miễn dịch bẩm sinh hoặc mắc phải; bệnh gan; trẻ đang điều trị bằng thuốc corticoid hoặc các thuốc ức chế miễn dịch khác; các bệnh hệ thống.
Các yếu tố có nguy cơ gây huyết khối ở trẻ mắc COVID-19 như: Điều trị tại ICU phải thở máy bất động kéo dài; có đường truyền trung tâm (catheter) hoặc longline; D-dimer ≥ 5 lần giới hạn trên bình thường; béo phì (BMI > 95th percentile); trẻ có tiền sử gia đình có huyết khối tĩnh mạch không rõ nguyên nhân; tiền sử bản thân huyết khối hoặc suy giảm miễn dịch; bệnh ác tính hoạt động, hội chứng thận hư, viêm tiềm tàng hoặc hoạt động, biến cố tắc mạch trên người bệnh huyết sắc tố S; bệnh tim bẩm sinh hoặc mắc phải có ứ máu tĩnh mạch (hội chẩn chuyên khoa); trẻ rối loạn nhịp tim (hội chẩn chuyên khoa).
Bộ Y tế cũng hướng dẫn nguyên tắc điều trị COVID-19 ở trẻ em như:
- Tuân thủ các biện pháp phòng ngừa lây nhiễm chuẩn trước và trong thời gian điều trị, chăm sóc.
- Phân loại trẻ bệnh theo mức độ và điều trị theo các mức độ nặng của bệnh.
- Tuân thủ nguyên tắc cấp cứu A-B-C: Kiểm soát đường thở, hỗ trợ hô hấp, tuần hoàn.
- Cá thể hóa các biện pháp điều trị, đặc biệt là các ca bệnh nặng nguy kịch.
- Điều trị nguyên nhân bằng thuốc kháng virus.
- Điều trị cơn bão cytokin bằng corticoid, lọc máu, ức chế sản xuất hoặc đối kháng IL receptor.
- Điều trị chống đông ở trẻ em cần cân nhắc cẩn thận, nhất là ở trẻ < 12 tuổi.
- Dùng kháng sinh/kháng nấm khi có bằng chứng lâm sàng và xét nghiệm.
- Điều trị hỗ trợ khác: Đảm bảo trẻ được bú mẹ và dinh dưỡng hợp lý theo mức độ nặng của bệnh, bù nước điện giải, vật lý trị liệu, sức khỏe tâm thần.
- Điều trị triệu chứng: Hạ sốt giảm ho, giảm đau...
- Điều trị bệnh nền nếu có.
Bộ Y tế cũng chú ý, đối với thuốc chưa được Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo sử dụng, chưa được cấp phép lưu hành, chưa được cấp phép sử dụng khẩn cấp tại bất kỳ nước nào trên thế giới, việc sử dụng phải tuân thủ các quy định về thử nghiệm lâm sàng của Bộ Y tế. Với thuốc đã được Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo sử dụng hoặc được cấp phép lưu hành, hoặc được cấp phép sử dụng khẩn cấp tại ít nhất 1 nước trên thế giới thì có thể được chỉ định điều trị theo diễn biến bệnh lý của người bệnh.
Tạ Nguyên/Báo Tin tức