Sự kết hợp của trí tuệ nhân tạo và công nghệ 3D, tạo ra bản sao số về con người, xác định rõ những tổn thương và phương án sửa chữa tổn thương. Y học cá thể hóa sẽ giúp cho việc điều trị người bệnh hiệu quả hơn.
Giáo sư, Tiến sĩ, bác sĩ Trần Trung Dũng bên cạnh mô hình 3D mô phỏng khối u xương khổng lồ.
Bản sao số mà Giáo sư, Tiến sĩ, bác sĩ Trần Trung Dũng đề cập tới, được chia sẻ tại hội thảo quốc tế gần đây tại Việt Nam về tương lai của công nghệ 3D, thu hút sự quan tâm của giới y khoa và công nghệ. Những điều giáo sư chia sẻ dưới đây, sẽ làm sáng tỏ về giá trị của công nghệ 3D với con người.
Hiện thực hóa công nghệ 3D tại Việt Nam
Phóng viên: Công nghệ 3D đã làm thay đổi phương thức điều trị của bác sĩ như thế nào?
Giáo sư, Tiến sĩ Trần Trung Dũng: Công nghệ 3D là số hóa mô phỏng từ các phim cộng hưởng từ, phim cắt lớp của bệnh nhân, qua đó, dựng lên bản vẽ giải phẫu, mô hình giải phẫu của chính bệnh nhân đó.
Từ đó, hỗ trợ các bác sĩ cải thiện chất lượng và phương thức điều trị ở 3 điểm: Một là xây dựng các phương án phẫu thuật “cá thể hóa” nhờ các hình ảnh tổn thương được tái tạo lại chính xác trên các mô hình 3D, các phẫu thuật viên phối hợp với các kỹ sư thiết kế xác định các thông số riêng của bệnh nhân và xây dựng phương án phẫu thuật “cá thể hóa” cho chính bệnh nhân đó. Vì vậy, mỗi bệnh nhân sẽ có 1 phương án phẫu thuật cụ thể khác nhau.
Hai là, dựa trên công nghệ in 3D, các “trợ cụ dẫn đường cá thể hóa” được in ấn giúp cho việc thực hiện phẫu thuật đạt độ chính xác gần như tuyệt đối so với tính toán. Mỗi bệnh nhân sẽ có 1 bộ “trợ cụ dẫn đường phẫu thuật” khác nhau bảo đảm hỗ trợ phẫu thuật đạt được độ chính xác theo thông số cá thể.
Ba là, nhờ công nghệ 3D in trực tiếp nên có khả năng tạo ra sản phẩm cấy ghép “cá thể hóa” như các sản phẩm xương khớp nhân tạo phục vụ việc phục hồi, sửa chữa từng tổn thương khác nhau của mỗi người.
Phóng viên: Các ông đã hiện thực hóa công nghệ 3D đó tại Việt Nam ra sao?
Giáo sư, Tiến sĩ Trần Trung Dũng: Từ năm 2022, Vinmec đã phối hợp với Trung tâm Công nghệ 3D trong Y học (Trường Đại học VinUni) sử dụng công nghệ 3D thực hiện thành công khoảng trên 200 ca phẫu thuật sử dụng “trợ cụ dẫn đường phẫu thuật” trong lĩnh vực Chấn thương chỉnh hình với tỷ lệ chính xác theo thông số cá thể đạt trên 98%, trong đó gồm 84 ca thay khớp gối toàn phần, 31 ca thay khớp háng toàn phần, 27 ca điều trị ung thư/loạn sản xương và nhiều ca thay khớp, chỉnh hình phức tạp.
Ngoài ra, các phương án phẫu thuật với sự hỗ trợ của công nghệ 3D còn ứng dụng trong một số chuyên khoa khác như phẫu thuật tiết niệu và can thiệp tim mạch tại Bệnh viện E và Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức.
Đối với Hệ thống y tế Vinmec, dự kiến sẽ triển khai công nghệ 3D trong lĩnh vực chấn thương chỉnh hình ở 100% các bệnh viện.
Đối với sản phẩm cấy ghép kim loại, mặc dù thiết bị, vật liệu và quy trình đạt chuẩn FDA (Mỹ) tuy nhiên trong điều kiện thực tiễn Việt Nam, để bảo đảm an toàn người bệnh, chúng tôi vẫn phải tiến hành thực hiện lại 1 số nghiên cứu về cơ tính, độc tính tế bào và thử nghiệm trên người tình nguyện theo quy định để xin phê duyệt của Bộ Y tế.
Một số trường hợp đặc biệt, không có lựa chọn khác như cho các trường hợp đặc biệt, chúng tôi thực hiện việc tính toán thiết kế còn lại khâu in ấn thì kết hợp với các lab 3D khác tại Đức có giấy phép để in các sản phẩm cấy ghép cho bệnh nhân. Hiện tại đã triển khai mổ được 4 bệnh nhân, có 2 bệnh nhân là Việt kiều