Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông - Chương 1 (Phần 2)

Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông - Chương 1 (Phần 2)

Ở nước ta, nguồn lợi sinh vật biển được khai thác và sử dụng thuộc mấy nhóm: cá, giáp xác (tôm, cua...), thân mềm (trai, ốc, mực...), rong tảo... Biển Việt Nam là kho tài nguyên sinh vật phong phú và đa dạng, có đến trên 160.000 loài, gần 10.000 loại thực vật và 260 loài chim sống ở biển. Trữ lượng các loài động vật ở biển ước tính khoảng 32,5 tỷ tấn, trong đó, các loài cá chiếm 86% tổng trữ lượng

Chào cờ trên đảo Trường Sa. Ảnh: thanhnien.vn

2. Vai trò của biển, đảo Việt Nam

2.1. Biển nước ta có một nguồn tài nguyên vô giá để phát triển kinh tế

2.1.1. Nguồn lợi sinh vật vô cùng phong phú

Biển Việt Nam có trên 2.458 loài cá gồm nhiều bộ, họ khác nhau, trong đó có khoảng 110 loài có giá trị kinh tế cao. Trữ lượng cá ở vùng biển nước ta khoảng 5 triệu tấn/năm, trữ lượng cá có thể đánh bắt hàng năm khoảng 2,3 triệu tấn. Các loài động vật thân mềm ở Biển Đông có trên 1.800 loài, trong đó có nhiều loài là thực phẩm được nhiều người ưa thích như: mực, hải sâm...

Chim biển: Các loài chim biển ở nước ta cũng vô cùng phong phú: hải âu, bồ nông, chim rẽ, hải yến...

Ngoài động vật, biển còn cung cấp cho con người nhiều loại rong biển có giá trị. Đây là nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng và là nguồn dược liệu phong phú. Biển nước ta có khoảng 638 loài rong biển. Các loại rong biển dễ gây trồng, ít bị mất mùa và cho năng suất thu hoạch cao nên nó sẽ là nguồn thực phẩm quan trọng của loài người trong tương lai. Hiện nay, trên thế giới trồng và khai thác khoảng 2 triệu tấn rong biển tươi.

2.1.2.Tài nguyên giao thông vận tải

Biển và đại dương từ xưa đã trở thành con đường giao thông vận tải hết sức rộng lớn và quan trọng của loài người. Những con đường chính nối liền các nước và các lục địa đều qua các biển và đại dương. Bởi vậy, ngành giao thông vận tải biển là một trong những ngành kinh tế cổ xưa nhất và quan trọng nhất. Hiện nay, khối lượng vận chuyển đường biển trên thế giới rất lớn (giữa những năm 1970 đã đạt hơn 3,5 tỷ tấn/năm), thường chiếm 3/4 lượng hàng hóa trao đổi trên thế giới. Giá thành vận chuyển đường biển chỉ bằng 40 - 45% giá vận chuyển đường sắt và thấp hơn 20 lần vận chuyển bằng ôtô, do đó, vận tải đường biển là ngành có điều kiện phát triển và sinh lợi lớn.

Lãnh thổ nước ta có đường bờ biển chạy theo hướng Bắc - Nam dọc theo chiều dài đất nước, lại nằm kề trên đường biển quốc tế quan trọng của thế giới, có những vũng sâu kín gió là điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông vận tải biển và mở rộng giao lưu với bên ngoài. Biển Việt Nam là cửa ngõ rộng mở đối với các ngành kinh tế có quan hệ trực tiếp với các miền của đất nước, giao lưu với thị trường khu vực và quốc tế. Xét về hiệu quả kinh tế, tiềm năng giao thông hàng hải Việt Nam là vô cùng to lớn. Dọc bờ biển Việt Nam có mười điểm có thể xây dựng cảng biển nước sâu (Hòn Gai, Cái Lân, Nghi Sơn, Hòn La, Vũng Áng, Chân Mây, Dung Quất, Văn Phong, Cam Ranh, Thị Vải, Vũng Tàu, Hòn Chồng) và nhiều điểm cảng trung bình khác (Hải Phòng, Cửa Lò, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang...) với tổng sản lượng hàng hoá vận chuyển có thể đạt 50 triệu tấn/năm. Nhìn vào tương lai hệ thống liên vận Đông Nam Á, nước ta cũng có thể phát triển một số cảng chuyên dụng hoặc cảng quá cảnh cho các nước láng giềng Trung Quốc, Lào, Mianma.

Mục tiêu trong lĩnh vực giao thông trên biển tới năm 2020 là phát triển mạnh hệ thống cảng biển quốc gia, xây dựng đồng bộ một số cảng hoạt động đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế đặc biệt chú trọng các cảng nước sâu ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam tạo những cửa mở lớn vươn ra biển thông với quốc tế. Tăng cường đầu tư chiều sâu, cải tiến đồng bộ và hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, sớm khắc phục tình trạng lạc hậu về trình độ kỹ thuật, công nghệ các cảng, tăng nhanh năng lực bốc xếp hàng hoá, giảm thiểu tối đa chi phí, bảo đảm có sức cạnh tranh cao trong hội nhập kinh tế quốc tế.

Biển Đông được coi là con đường chiến lược về giao lưu và thương mại quốc tế giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, ở cả bốn phía đều có đường thông ra Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương qua các eo biển. Từ các hải cảng ven biển của Việt Nam thông qua eo biển Malacca để đi đến Ấn Độ Dương, Trung Đông, châu Âu, châu Phi; qua eo biển Basi có thể đi vào Thái Bình Dương đến các cảng của Nhật Bản, Nga, Nam Mỹ và Bắc Mỹ; qua các eo biển giữa Philippines, Indonesia, Singapore đến Ôxtrâylia và NiuDilân... Hầu hết các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương đều có các hoạt động thương mại hàng hải rất mạnh trên Biển Đông. Trong tổng số 10 tuyến đường biển lớn nhất trên thế giới hiện nay, có 5 tuyến đi qua Biển Đông hoặc có liên quan đến Biển Đông.

Đèn biển Tiên Nữ thuộc quần đảo Trường Sa. Ảnh:  danviet.vn

Vùng biển và ven biển Việt Nam nằm án ngữ trên các tuyến hàng hải và hàng không huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực. Biển Đông đóng vai trò là chiếc "cầu nối" cực kỳ quan trọng, là điều kiện rất thuận lợi để giao lưu kinh tế, hội nhập và hợp tác giữa nước ta với các nước trên thế giới, đặc biệt là với các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, khu vực phát triển kinh tế năng động và có một số trung tâm kinh tế lớn của thế giới. Biển và vùng ven biển là cửa mở lớn, là "mặt tiền" quan trọng của đất nước để thông ra Thái Bình Dương và mở cửa mạnh mẽ ra nước ngoài. So với các vùng khác trong nội địa, vùng ven biển gồm hầu hết các đô thị lớn có kết cấu hạ tầng khá tốt; có các vùng kinh tế trọng điểm của cả nước đang được đầu tư phát triển mạnh; có nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, trong đó một số loại có thể trở thành mũi nhọn để phát triển; có nguồn lao động dồi dào và hệ thống giao thông đường sắt, đường thủy, đường bộ thuận tiện; là môi trường hết sức thuận lợi để tiếp nhận các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, tiếp thu công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý hiện đại của nước ngoài, từ đó lan toả ra các vùng khác trong nội địa. Có thể nói, vùng ven biển là vùng có nhiều lợi thế hơn hẳn các vùng khác để phát triển kinh tế nhanh.

Sự hình thành mạng lưới cảng biển cùng các tuyến đường bộ, đường sắt dọc ven biển và nối với các vùng sâu trong nội địa (đặc biệt là các tuyến đường xuyên Á) sẽ cho phép vùng biển và ven biển nước ta có khả năng chuyển tải hàng hoá xuất, nhập khẩu tới mọi miền của Tổ quốc, đồng thời thu hút cả vùng Tây Nam Trung Quốc, Lào, Đông Bắc Thái Lan và Campuchia.

Hiện nay, các nước trong khu vực đang tích cực khởi động chương trình phát triển Tiểu vùng Mê Công, Việt Nam và Trung Quốc đang hợp tác xây dựng và thực hiện chương trình Vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ, coi đó là một cực tăng trưởng mới trong khuôn khổ của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (CAFTA).

Biển Việt Nam nằm trên trục đường giao thông đường biển quốc tế từ Thái Bình Dương sang Đại Tây Dương, trong tương lai sẽ là tiềm năng cho ngành kinh tế dịch vụ trên biển (đóng tàu, sửa chữa tàu, tìm kiếm cứu hộ, thông tin dẫn dắt...). Đặc biệt, đáng chú ý là vùng biển và ven biển Việt Nam còn nằm án ngữ trên các tuyến hàng hải và hàng không huyết mạch của thế giới, có thể nói đó là cánh cửa rộng mở để cho ta vươn ra đại dương bao la, nhằm chủ động hội nhập với kinh tế thế giới một cách có hiệu quả.

2.1.3. Tài nguyên du lịch

Bờ biển dài có nhiều bãi cát, vũng, vịnh, hang động tự nhiên đẹp là tiềm năng về du lịch lớn của nước ta.

Do đặc điểm kiến tạo khu vực, các dãy núi đá vôi vươn ra sát bờ biển tạo nhiều cảnh quan thiên nhiên sơn thủy rất đa dạng, nhiều vụng, vịnh, bãi cát trắng, hang động, các bán đảo và các đảo lớn nhỏ liên kết với nhau thành một quần thể du lịch hiếm có trên thế giới như di sản thiên nhiên Hạ Long được UNESCO xếp hạng.

Hệ thống gần 82 hòn đảo ven bờ có diện tích trên 1km2, trong đó 24 đảo có diện tích trên 10km2 (10 - 320km2), cách bờ không xa là những hệ sinh thái đảo hấp dẫn. Ở đây không khí trong lành, nước biển trong và sạch, bãi cát trắng mịn.

Các thắng cảnh trên đất liền nổi tiếng như Phong Nha, Bích Động, Non Nước..., các di tích lịch sử và văn hoá như Cố đô Huế, phố cổ Hội An, Tháp Chàm, nhà thờ đá Phát Diệm... phân bố ngay vùng ven biển.

Các trung tâm kinh tế thương mại, các thành phố du lịch nằm ven biển hoặc cách bờ biển không xa như Hạ Long, Hải Phòng, Vinh, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Vũng Tàu, Hà Tiên, Hà Nội, Sài Gòn. Hệ thống đường bộ, đường xe lửa xuyên Việt và liên vận quốc tế chất lượng cao chạy dọc bờ biển.

Đảo Đá Lát, thuộc quần đảo Trường Sa (Khánh Hòa). Ảnh: TTXVN

Biển Việt Nam có đầy đủ điều kiện để phát triển các loại hình du lịch hiện đại như:

+ Nghỉ ngơi, dưỡng bệnh, tắm biển, tham quan có thể ở đất liền, có thể ở ngoài đảo.

+ Du lịch sinh thái nghiên cứu khoa học vùng ven bờ, hải đảo, ngầm dưới nước.

+ Du lịch thể thao: bơi, lặn sâu, lướt ván, nhảy sóng, đua thuyền..., có thể tổ chức các loại thi đấu thể thao quốc gia và quốc tế quanh năm.

+ Dịch vụ hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế.

2.1.4. Tài nguyên không sinh vật

Trong lòng đất dưới đáy biển, trong lớp bùn dưới đáy đại dương, vùng cát ven biển chứa đủ các loại khoáng sản quý hiếm, nhiều khi trữ lượng còn lớn hơn gấp nhiều lần các mỏ trên lục địa. Chỉ riêng đáy Thái Bình Dương, người ta ước tính các kết cuội đa kim tập trung thành những mỏ quan trọng có trữ lượng rất lớn: mangan khoảng 400 tỷ tấn, đồng 8,8 tỷ tấn, titan 10 tỷ tấn, niken 16,4 tỷ tấn, sắt 20 tỷ tấn... Riêng trữ lượng dầu mỏ ở biển và ở đại dương có hàng chục tỷ tấn, khí thiên nhiên ước tính có khoảng 14.000 tỷ m3, biển, thềm lục địa Việt Nam có khoảng 500.000km2 nằm trong vùng triển vọng có dầu khí. Trữ lượng dầu khí ngoài khơi miền Nam Việt Nam có thể chiếm tới 25% trữ lượng dầu khí dưới đáy Biển Đông, có thể khai thác 30 - 40 ngàn thùng/ngày (mỗi thùng là 159 lít), khoảng 20 triệu tấn/năm. Trữ lượng dầu khí dự báo của toàn thềm lục địa Việt Nam khoảng 10 tỷ tấn quy dầu. Ngoài dầu, Việt Nam còn có khí đốt với trữ lượng khoảng ba nghìn tỷ m3/năm.

Dầu khí là tài nguyên lớn nhất ở thềm lục địa nước ta có tầm chiến lược quan trọng. Đến nay, chúng ta đã xác định được tổng tiềm năng dầu khí tại các bể trầm tích: Sông Hồng, Phú Khánh, Nam Côn Sơn, Cửu Long, Malay - Thổ Chu, Vũng Tư - Vũng Mây... đã được xác định tiềm năng và trữ lượng đến thời điểm này là từ 0,9 đến 1,2 tỷ m3 dầu và từ 2.100 đến 2.800 tỷ m3 khí. Trữ lượng đã được xác minh là gần 550 triệu tấn dầu và trên 610 tỷ m3 khí. Trữ lượng khí đã được thẩm lượng, đang được khai thác và sẵn sàng để phát triển trong thời gian tới vào khoảng 400 tỷ m3.

Vùng biển nước ta nằm gọn trong phần phía Tây của vành đai quặng thiếc Thái Bình Dương, có trữ lượng thiếc lớn, ngoài ra ven biển Việt Nam chứa đựng một tiềm năng to lớn về quặng sa khoáng như titan, zircon, thiếc, vàng, đất hiếm... trong đó cát nặng, cát đen là nguồn tài nguyên quý giá, chúng được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau, sa khoáng titan, sa khoáng ilmenit, sa khoáng cát đen. Điều cần lưu ý là lĩnh vực ứng dụng các nguyên tố đất hiếm rất phong phú và đa dạng. Trong luyện kim người ta chế tạo những vật liệu đặc biệt cho ngành hàng không, vũ trụ và cho các lò phản ứng hạt nhân. Trong điện tử tin học, trong kỹ thuật điện và ánh sáng (phát quang), trong các ngành gốm, sứ, hoá chất... đều có sử dụng đất hiếm.

Zircon: Các khoáng vật chứa Zr trong sa khoáng ven biển có zircon và zirtholit. Zirtholit là khoáng vật hiếm và ít có giá trị. Zircon phổ biến hơn trong sa khoáng ven biển hiện đại và là khoáng vật có giá trị kinh tế nhất khi thu hồi zirconi. Trong sa khoáng ven biển Việt Nam hàm lượng và mức độ phổ biến của zircon chỉ đứng sau ilmenit. Trong thành phần của khoáng vật zircon, ngoài nguyên tố Zr là chủ yếu còn có hafni. Trên thế giới Hf được thu hồi chủ yếu từ khoáng vật zircon, trung bình khoảng 0,5 - 0,7%, có khi lớn hơn 1%. Hafni trong zircon ở các mỏ sa khoáng ven biển Việt Nam có hàm lượng cao hơn 1%.

Dọc ven biển Việt Nam đều có các mỏ sa khoáng, nhưng nhiều hơn cả ở các tỉnh Bình Thuận - Quảng Nam - Đà Nẵng.

Sắt - Mangan: Theo tài liệu khảo sát của tàu Atlante, ở Biển Đông có nhiều dấu hiệu kết hạch sắt - mangan với hàm lượng có ích đủ cho yêu cầu công nghiệp. Tuy nhiên, dạng tài nguyên này nằm ở những độ sâu trên 2.000m nên việc khai thác còn ở tương lai. Mỏ sắt Thạch Khê, Hà Tĩnh có giá trị công nghiệp lớn, trữ lượng 580 triệu tấn, song việc khai thác đòi hỏi kỹ thuật cao và vốn đầu tư lớn.

Cát thạch anh tinh khiết: Các khu vực ven biển Vân Hải, Cát Bà, Kỳ Anh, Quảng Bình, Đà Nẵng, Cam Ranh... có những bãi cát có ý nghĩa công nghiệp. Công nghiệp thuỷ tinh cao cấp và công nghiệp vật liệu mới có một nhu cầu lớn về cát thạch anh tinh khiết.

Thạch cao: Vùng ven biển Bình Thuận có những bãi thạch cao do hiện tượng đùn lên trên bãi cát, trữ lượng không đáng kể. Tuy vậy, nếu kết hợp việc thu hồi thạch cao trong công nghiệp muối thì việc thiếu thạch cao ở nước ta cũng được bù đắp một phần nào.

Cát biển: Hiện nay cát biển đã trở thành nguồn nguyên liệu quan trọng đối với ngành xây dựng.

2.2.    Biển có vai trò quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, truyền thuyết về Lạc Long Quân dẫn 50 người con xuống biển nói lên rằng: từ xa xưa tổ tiên ta không chỉ gắn bó với đất liền mà còn gắn bó với biển khơi. Đó là tư duy sơ khai về quá trình chinh phục biển của người Việt cổ. Hình thuyền khắc trên trống đồng Đông Sơn khẳng định từ lâu dân tộc ta đã gắn bó với sông nước, lấy thuyền làm phương tiện làm ăn sinh sống. Quan tài hình thuyền trong những ngôi mộ cổ được tìm thấy ở Tràng Kênh - Việt Khê (Hải Phòng) với hơn 100 hiện vật tùy táng bằng đồng thau, trong đó có trống đồng đã chứng minh điều ấy.

Thực chất của quá trình dựng nước đầu tiên ở nước ta là một quá trình lấn biển theo hai hướng: từ núi xuống (lấn biển) và ngược lại, từ hướng biển lên (biển lấn). Có những nhóm người thời biển tiến toàn là cư dân ven biển, nhưng sang đến thời kỳ cách đây 4.000 - 5.000 năm, theo đà biển thoái, họ đã nghiễm nhiên trở thành cư dân nội địa, cư dân của vùng đồng bằng trù phú, phì nhiêu. Đó là một trong những nét độc đáo thể hiện tính chất bản địa của những nhóm cư dân thời dựng nước, trong đó có cư dân của nước Văn Lang.

Vào khoảng trước và sau công nguyên, với những thành tựu chinh phục mặt nước biển, những cư dân cuối cùng của quận Nhật Nam với sự bảo tồn được độc lập, tự do qua sự thành lập nước Lâm Ấp, đã có những mối giao lưu rộng rãi với Ấn Độ. Cư dân của Óc Eo đã có những mối liên hệ xa bằng đường biển đến tận vùng Địa Trung Hải. Trong tình trạng bị nô dịch bởi các thế lực phong kiến phương Bắc có ưu thế về sức mạnh biển, những cư dân ven biển ở phía Bắc cũng biến thành những người lao công tủi nhục, bị bóc lột nặng nề. Thời Ngô Quyền và sau này là Đinh Tiên Hoàng, 3 trong 7 quận của nước ta đã khôi phục được nền độc lập, tự chủ, mở đầu cho kỷ nguyên Đại Việt. Nhà Trần hùng mạnh, ba lần đánh tan quân Nguyên đã khởi dựng được sự nghiệp từ những người đánh cá ven biển Nam Định - Ninh Bình ngày nay. Nhà Mạc với sự phát huy cao độ yếu tố dân gian trong nền văn hóa dân tộc cũng bắt đầu sự nghiệp của mình từ những cư dân làm nghề đánh cá ven biển Hải Phòng hiện nay. Những vương triều phong kiến được xây dựng từ những cư dân và nghề đánh cá ở ven biển phải chăng là một hiện tượng độc đáo của Việt Nam.

Các triều đình phong kiến nước ta đã chăm lo đến việc bảo vệ và thực thi chủ quyền và các quyền của Việt Nam đối với các vùng biển và hải đảo của mình. Thời Lý đã thiết lập những Trang, thời Trần thiết lập những Trấn, thời Lê (năm 1426) đặt Tuần Kiểm ở các xứ cửa biển, các đồn, các đảo... để quản lý biển, thu thuế của các tàu thuyền nước ngoài qua lại vùng biển của ta. Thời chúa Nguyễn đã thành lập các Đội Hoàng Sa. Hằng năm, triều đình thường chọn 70 suất dân ở Cù Lao Ré sung vào Đội này nhận nhiệm vụ của Vua giao ra Hoàng Sa để bảo vệ, quản lý và khai thác.

Thủy quân Lạc Việt đã từng đứng vào bậc nhất, nhì ở Đông Nam châu Á. Trong suốt chiều dài lịch sử gần 2.000 năm của dân tộc Việt Nam, trên sông biển đã hình thành nên những trận thủy chiến oanh liệt như: chống giặc Quỳnh Châu từ phía Bắc, diệt Hồ Tôn từ phía Nam (thời Hùng Vương); quân thủy Lê Chân làm khiếp đảm quân thủy địch ở vùng biển Hải Phòng ngày nay (thời Hai Bà Trưng); chặn đánh Trần Bá Tiên ở Tô Lịch, Hồ Điển Triệt, Đầm Dạ Trạch (thời Lý Nam Đế); đánh quân Đường, vây thành Đại La (thời Mai Thúc Loan); trận Bạch Đằng lần thứ nhất - năm 938 (thời Ngô Quyền); trận Bạch Đằng lần thứ hai - năm 981 (thời Lê Hoàn); náo động Châu Khâm, Châu Liêm - năm 1075, chặn đứng quân địch ngoài biển - năm 1077 (thời Lý). Đặc biệt, là trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba - năm 1288, quân và dân ta dưới sự chỉ huy của Trần Quốc Tuấn thiên tài, đã lập được chiến công vang dội nhất trên dòng sông Bạch Đằng lịch sử tiêu diệt toàn bộ đạo quân thủy sáu vạn tên, bắt các tướng Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ, buộc Thoát Hoan phải rút quân chạy trốn về nước. Những nhân vật tài giỏi về hoạt động trên sông biển như Trần Khánh Dư, Yết Kiêu, Dã Tượng, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Nguyễn Khoái... đã lập công xuất sắc, làm rạng rỡ nền nghệ thuật thủy chiến của dân tộc ta.

Thế kỷ thứ XVI, XVII và những năm đầu thế kỷ thứ XVIII, thủy quân Việt Nam cũng chiến thắng các đội thủy quân xâm lược của chủ nghĩa tư bản châu Âu như đánh thắng hạm đội của thực dân Tây Ban Nha năm 1595, hai lần đánh thắng hạm đội của thực dân Hà Lan trong các năm 1642, 1643; đánh thắng hạm đội của thực dân Anh năm 1702. Thời kỳ Tây Sơn (thế kỷ XVIII), Nguyễn Huệ đã tổ chức phát triển mạnh kinh tế biển, xây dựng được một đội quân thủy hùng mạnh vào bậc nhất ở Đông Nam Á. Quân thủy Tây Sơn đã nhiều lần vào Nam ra Bắc đánh đổ hai tập đoàn phong kiến là nhà Trịnh (Đàng Ngoài) và nhà Nguyễn (Đàng Trong), chấm dứt cảnh đất nước bị chia cắt hơn 200 năm. Năm 1785, Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy quân thủy tiến công và chiến thắng quân Xiêm ở Rạch Gầm - Xoài Mút trong trận quyết chiến chiến lược lịch sử. Các chiến binh Viêt Nam thuộc các triều đại có truyền thống chiến đấu giỏi ở trên biển, trên sông và luôn có sự phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng dưới nước và lực lượng trên bờ. Những trận thủy chiến ở trên sông, biển đã diễn ra hết sức oanh liệt mà ngày nay đã được khái quát là "truyền thống Bạch Đằng" chống ngoại xâm.

Thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, đặc biệt từ khi Cách mạng tháng Tám thành công, để bảo vệ chủ quyền nước ta, các tổ chức dân quân ở các làng xóm, thôn xã ven biển được khẩn trương xây dựng. Quân và dân ta vừa bám sông, bám biển, đánh chìm nhiều tàu thuyền của địch, vừa lợi dụng sông biển để tổ chức vận tải phục vụ kháng chiến. Dọc tuyến vận tải ven biển, những đơn vị chuyên làm nhiệm vụ vận tải đường biển được tổ chức, nhất là đội vận tải đường biển của Liên khu V trong những năm cuối của cuộc kháng chiến đã phát triển đến 200 người với 130 chiếc thuyền, trong đó có khoảng một nửa là thuyền lớn - chở được 15 đến 20 tấn. Từ năm 1948 đến 1954, đội vận chuyển được gần 3.000 tấn hàng hóa các loại cho các tỉnh Nam Trung Bộ và miền Đông Nam Bộ.

Đảo Phan Vinh thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.  Ảnh: TTXVN

Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước (thế kỷ XX), quân và dân ta đã liên tiếp giành được những thắng lợi to lớn cả trên đất liền và trên sông biển, tiến tới giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hải quân nhân dân Việt Nam thực sự là lực lượng nòng cốt của chiến tranh nhân dân trên chiến trường biển, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang và nhân dân ven biển hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đường Hồ Chí Minh trên Biển Đông đã góp phần chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam, đã trở thành huyền thoại sống mãi với dân tộc Việt Nam.

Biển nước ta là một không gian chiến lược đặc biệt quan trọng đối với quốc phòng - an ninh của đất nước. Với một vùng biển rộng lớn, bờ biển dài, địa hình bờ biển quanh co, khúc khuỷu, có nhiều dãy núi chạy lan ra biển, chiều ngang đất liền có nơi chỉ rộng khoảng 50km (tỉnh Quảng Bình), nên việc phòng thủ từ hướng biển luôn mang tính chiến lược. Mạng lưới sông ngòi chằng chịt chảy qua các miền của đất nước, chia cắt đất liền thành nhiều khúc, cắt ngang các tuyến giao thông chiến lược Bắc - Nam. Ở nhiều nơi, núi chạy lan ra sát biển, tạo thành những địa hình hiểm trở, những vịnh kín, xen lẫn với những bờ biển bằng phẳng, thuận tiện cho việc trú đậu tàu thuyền và chuyển quân bằng đường biển. Hệ thống quần đảo và đảo trên vùng biển nước ta cùng với dải đất liền ven biển thuận lợi cho việc xây dựng các căn cứ quân sự, điểm tựa, pháo đài, trạm gác tiền tiêu, hình thành tuyến phòng thủ nhiều tầng, nhiều lớp, với thế bố trí chiến lược hợp thế trên bờ, dưới nước, tạo điều kiện thuận lợi để bảo vệ, kiểm soát và làm chủ vùng biển của nước ta. Đồng thời, đây cũng là những lợi thế để bố trí các lực lượng, vũ khí trang bị kỹ thuật của các lực lượng hoạt động trên biển, ven biển phối hợp chặt chẽ với các lực lượng khác trên bờ, tạo thành thế liên hoàn biển - đảo - bờ trong thế trận phòng thủ khu vực.

Biển, đảo là một bộ phận cấu thành phạm vi chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, cùng với đất liền tạo ra môi trường sinh tồn và phát triển đời đời của dân tộc ta. Lấn biển để dựng nước và thông qua biển để giữ nước là một nét độc đáo Việt Nam trong quá khứ. Đó cũng chính là nét độc đáo của bản sắc văn hóa Việt Nam, cần được giữ vững và phát huy hơn nữa trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của khoa học kỹ thuật, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Càng tự hào và trân trọng di sản quá khứ, chúng ta càng phải khai thác, khơi dậy nguồn sức mạnh của bao thế hệ người Việt Nam trong sự nghiệp giữ vững chủ quyền vùng biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc, thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

"Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp. Ta phải biết giữ gìn lấy nó".

(Còn nữa)

Bình luận bài viết

Bình luận

BÁO HÀ NAM ĐIỆN TỬ

Giấy phép xuất bản số 68/GP-BTTTT do Bộ Thông tin - Truyền thông cấp ngày 16/2/2017

Địa chỉ: Đình Tràng, phường Lam Hạ, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam

Tổng Biên tập: Lê Hồng Kỳ

Điện thoại: (0226) 3852.773 - 3853.342 | Fax: (0226)3853.342

Email: baohanam.dientu@gmail.com

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản.