Tam Nguyên Yên Đổ - Nguyễn Khuyến và những tứ thơ xuân

Quê hương núi Đọi sông Châu 06:26 19/02/2022 Thế Vĩnh
Nhắc đến tài thơ của đại danh khoa Tam Nguyên Yên Đổ - Nguyễn Khuyến, nhiều người thường nghĩ ngay đến những bài thơ về mùa thu nổi tiếng (“Thu vịnh”, “Thu điếu”, “Thu ẩm”…) mà ít khi nhắc đến những thi tác của cụ về Tết, về mùa Xuân. Trong khuôn khổ bài viết nhân dịp đầu xuân, năm mới, xin được chắp nối đôi dòng giới thiệu khái lược cùng vài nét cảm nhận ban đầu xung quanh những bài thơ, tứ thơ nổi tiếng về mùa Xuân của thi sĩ Vườn Bùi - Nguyễn Khuyến.

Cũng như những bài thơ về mùa thu, đa số thi tác về mùa Xuân của  Nguyễn Khuyến chủ yếu ra đời vào thời kỳ cụ đã cáo quan về sống nơi Vườn Bùi, Yên Đổ, Bình Lục (*). Bởi thế nên hình ảnh mùa Xuân cùng không khí Tết trong nhiều bài thơ xuân của  Nguyễn Khuyến mang đậm sắc thái làng cảnh Việt Nam. Và đây là hình ảnh về bức tranh xuân quê sống động, gần gũi, gợi nhớ ngày Tết của một vùng chiêm trũng Bình Lục nghèo khó nhưng mang đậm phong vị làng quê Việt với bao lề tục xưa cũ: “Ình ịch đêm qua trống các làng/Ai ai mà chẳng rước xuân sang” (Khai bút); “Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng/Ngoài ngõ bi bô rủ chung thịt” (Cảnh Tết); “Mong xuân, xuân đến không hay/Hạt mưa lất phất từng mây im lìm/Cây xanh nảy lộc bên thềm/Trên trời, dưới nước cá chim vẫy vùng” (Xuân nhật 3)....

Cảm nhận những nét phác họa về làng cảnh thôn quê trong thơ xuân Nguyễn Khuyến, chúng ta dường như thấy hiện lên thấp thoáng đâu đây cảnh nhà thi sĩ Vườn Bùi với cuộc sống bình lặng, thanh bần của một vị đại danh khoa bảng đã cáo quan về ở ẩn mà có lần cụ tình cờ họa lên trong một bài thơ về mùa thu - “Thu ẩm”: ‘Năm gian nhà cỏ thấp le te/Ngõ tối, đêm sâu đóm lập lòe”.

Để rồi, không biết có phải xuất thân từ cảnh nhà thanh bần, lại trải qua nhiều long đong, vất vả trước thế sự, thời cuộc hay bởi vốn dĩ là người luôn coi trọng nền nếp gia phong mà khi đón Tết, mừng xuân, thay vì chỉ chú tâm chúc tụng sức khỏe, vinh danh, tài lộc… thì cụ Tam Nguyên Yên Đổ lại chuyên tâm coi trọng việc răn dạy, khuyên bảo con cháu: “Năm mới vừa sang năm cũ qua/Tuy nghèo, ta vẫn mến nhà ta/Chín sào tư thổ là nơi ở/Một bó tàn thư ấy nghiệp nhà/Trước cửa khói dày non khuất bóng/Bên tường, mưa ít, cúc thưa hoa/Các con nối chí cha nên biết/Nghiên bút đừng quên lúa, đậu, cà” (Ngày xuân dạy các con).

Di tích Từ đường Nguyễn Khuyến (Vị Hạ, Trung Lương, Bình Lục).

Cởi bỏ tấm áo quan trường, rũ bỏ đi những bận lòng trước bao nhiễu nhương, lố bịch của thời cuộc và cũng là để thể hiện thái độ bất hợp tác với chính quyền thực dân - phong kiến đương thời, Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến lui bước về Vườn Bùi, những mong nhẹ lòng hòa mình với cuộc sống thanh bần nơi vùng quê chiêm trũng nghèo Bình Lục. Nhưng rồi có lẽ nỗi niềm về thế sự, nhân gian, về nỗi đau mất nước vẫn chẳng vì tâm thế đón mừng xuân mới mà phần nào được an tĩnh, nguôi ngoai: “Năm mới vừa đến, năm cũ qua/Mọi người vui vẻ sao ta buồn…” (Cảm nghĩ đầu xuân). Sẵn mang tâm trạng buồn cùng nỗi niềm cô đơn về thời cuộc nên cảnh sắc mùa Xuân trong những bài thơ xuân của Nguyễn Khuyến đâu đó vẫn vô tình gợi lên một không gian buồn khắc khoải: “Là là mặt đất lớp sương sa/Ánh sáng ban mai vẫn mập mờ/Hạt quất ngoài vườn chờ nứt vỏ/Giò tiên trong chậu chửa bung hoa/Đầm đìa lệ sớm cành tre rủ/Lạc lõng canh khuya tiếng hạc qua” (Xuân nhật). Chưa hết, không chỉ buồn, trong nỗi xót xa đau đáu chẳng dễ chia sẻ cùng ai, cụ Nguyễn dường như còn tự lục vấn lòng mình trước bao điều thế sự: “Nhiễu nhương gió bụi bác nho gàn/Nhàn rỗi khác gì bị trói chân/Danh hão chỉ hơn anh bị gậy/Tài xoàng, e kém chú che tàn/Hé nhìn nửa gối trời cao rộng/Nằm khểnh bên song tính chiếc đơn…” (Mùa xuân bị bệnh). 

Cáo quan về ở ẩn, vị đại danh khoa bảng đã từng đỗ đầu ba kỳ ứng thí của vùng quê Yên Đổ có điều kiện gần gũi, thân quen và thấu hiểu sâu sắc hơn với cảnh ngộ người dân miền đồng chiêm lam lũ. Và không biết có phải vì thế mà trong ý tứ sâu xa những câu thơ của cụ Nguyễn đón chào mùa Xuân mới dường như không chỉ có cái không khí tất bật, rộn vui, khấp khởi mà còn có cả những thấp thỏm, âu lo của bách dân, trăm họ chốn thôn quê nghèo khó: “Tháng Chạp hai mươi bốn chợ Đồng (**)/Năm nay chợ họp có vui không?/Hàng quán người về nghe xao xác/Nợ nần năm hết hỏi lung tung/Năm ba ngày nữa thì xuân tới/Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng” (Chợ Đồng). 

Cũng mang tâm trạng chung giống như tâm trạng của nhiều người, càng cao niên, thi sĩ Vườn Bùi càng thấy rõ hơn sức nặng của tuổi tác, nhất là vào những thời điểm đón thêm một mùa Xuân mới. Xuân Canh Tý 1900, thi sĩ Tam Nguyên Yên Đổ bước sang tuổi sáu mươi sáu, có lẽ bởi vậy nên ý tứ sâu xa thể hiện trong thi tác “Xuân Canh Tý” cụ viết năm ấy, chúng ta dễ dàng nhận thấy một tâm trạng buồn lặng lẽ đến tái tê: “Năm nay sáu sáu tuổi trời/Mỏi mòn năm tháng chẩy trôi mà buồn/Lợi răng lục đục đôi phương/Rối bời râu tóc nhuốm sương trên đầu/Qua ba ngày tết vơi bầu/Hoa trong chậu cảnh như hầu muốn rơi…”.

Cùng với trên ba mươi bài thơ về mùa Xuân, thi sĩ Vườn Bùi còn có một số lượng đáng kể những đôi câu đối mừng xuân giàu giá trị thẩm mỹ, thể hiện rõ sự tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ cũng như tính cách hóm hỉnh, phóng khoáng của một vị đại danh khoa dù đã lui về ẩn dật nơi chốn quê nghèo. Trong Nguyễn Khuyến và giai thoại (Bùi Cường, Nhà xuất bản Văn hóa) có không ít câu chuyện thú vị về nhà thơ với mùa Xuân. Với khuôn khổ hạn hẹp của bài viết, chỉ xin trích lược một câu chuyện nói về sự tinh tế, khéo léo trong sử dụng chữ nghĩa của cụ Nguyễn về đề tài mùa Xuân. Chuyện rằng có anh học trò cũ của cụ Tam Nguyên Nguyễn Khuyến đến thăm thầy vào những ngày cận chạp, giáp Tết. Sau một hồi trò chuyện thân tình, anh học trò ngượng ngập, gãi đầu rụt rè thưa: Thưa thầy! Lẽ ra ngày Tết con phải sắm lễ đến Tết thầy, nhưng vì cảnh nhà bần bạch nên con chỉ có chút quà vườn nhà biếu thầy để bày mâm ngũ quả... Nói rồi trò nghèo đặt lên ba quả bưởi. Cụ Tam Nguyên rất cảm động, lặng đi đôi chút, cụ cười xòa, cởi mở: Thầy cảm ơn con đã cho quà. Thầy cũng nghèo, chẳng có gì tặng lại, chỉ có ít chữ, con lấy giấy bút, thầy cho đôi câu đối làm quà treo Tết. Nói rồi cụ vừa ngẫm nghĩ, vừa thong thả ngân nga: “Uẩy! Tết đến đó rồi! Chẳng lẽ giơ cùi cùng tuế nguyệt; Kìa! Xuân sang đấy nhỉ! Phen này mở múi với giang sơn”. Cái bất ngờ, thú vị trong đôi câu đối của thi sĩ Vườn Bùi chính là ở chỗ không chỉ bắt được trọn vẹn niềm cảm hứng khởi phát từ việc được biếu quả bưởi mà còn rất tinh tế, khéo léo họa lên tình cảnh thanh bần, nghèo khó nhưng vẫn nói được phong cách lạc quan, vui vẻ cùng sự cảm thông, chia sẻ và mối gắn kết thầy trò sâu đậm, thắm thiết…

Tháng Giêng hằng năm có thể coi là khoảng thời gian “đặc biệt”  với nhà thơ Tam Nguyên Yên Đổ - Nguyễn Khuyến bởi nhà thơ sinh ngày 18, tháng Giêng, năm Ất Mùi (1835), mất ngày 15, tháng Giêng, năm Kỷ Dậu (1909). Và tháng Giêng, đọc lại thơ xuân Nguyễn Khuyến để thêm một lần cảm nhận sâu sắc hơn nỗi lòng trăn trở, day dứt của một nhà thơ tiêu biểu sống trong bối cảnh đất nước loạn lạc ở khoảng thời gian cuối thế kỷ XIX và cũng là để trân quý hơn bản sắc cùng những đóng góp của cụ Tam Nguyên Yên Đổ đối với nền thi ca nước nhà.

______________________________________

(*) Nguyễn Khuyến (1835-1909) hiệu Quế Sơn, lúc nhỏ tên là Nguyễn Thắng, sinh tại quê ngoại (xã Hoàng Xá, nay là xã Yên Trung, Ý Yên, Nam Định), lớn lên và sống chủ yếu ở quê nội (làng Và, xã Yên Đổ, nay thuộc Trung Lương, Bình Lục). (**) Chợ Đồng-Chợ ở làng Vị Hạ, họp vào ngày chẵn ở giữa làng, riêng ba phiên cuối năm do chợ Tết, đông người nên thường họp ở ngoài đồng.

TIN MỚI CẬP NHẬT

Hội Cựu chiến binh tích cực tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân

Đoàn - Hội  |  10:36 01/12/2024

Hội Cựu chiến binh (CCB) tỉnh hiện có hơn 46.000 hội viên, sinh hoạt ở 166 tổ chức cơ sở hội, 721 chi hội. Ngoài ra, toàn tỉnh đã vận động được gần 30.000 cựu quân nhân tham gia sinh hoạt tại 731 câu lạc bộ, ban liên lạc ở các thôn, tổ dân phố. Đây là lực lượng đông đảo, có uy tín, tâm huyết, gương mẫu trong tham gia thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, phong trào thi đua; xây dựng, bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân.

Độc đáo công nghệ quân sự Việt Nam - bài học về xây dựng Quân đội tiến lên hiện đại-Bài 2: Kế thừa truyền thống công nghệ quân sự của dân tộc

Quốc phòng  |  05:55 01/12/2024

Những đặc trưng công nghệ quân sự Việt Nam góp phần đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược được kế thừa từ hàng nghìn năm của dân tộc. Việt Nam có “mặt tiền” trông ra Biển Đông, là nơi dừng chân qua lại giữa hai đại dương lớn của thế giới là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, vừa có điều kiện rất thuận lợi để tiếp thu các nền văn minh trên thế giới, nhưng cũng là tâm điểm “nhòm ngó” của các thế lực bành trướng, xâm lược. Do trải qua nhiều thế kỷ chống kẻ thù xâm lược nên người Việt đã sớm biết chế tạo và sử dụng vũ khí để đánh giặc.

BÁO HÀ NAM ĐIỆN TỬ

Giấy phép xuất bản số 68/GP-BTTTT do Bộ Thông tin - Truyền thông cấp ngày 16/2/2017

Địa chỉ: Đình Tràng, phường Lam Hạ, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam

Tổng Biên tập: Lê Hồng Kỳ

Điện thoại: (0226) 3852.773 - 3853.342 | Fax: (0226)3853.342

Email: baohanam.dientu@gmail.com

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản.

DANH MỤC