Hà Nam tự hào là quê ngoại của nhà bác học Lê Quý Đôn. Cha ông - Tiến sĩ Lê Quý Thứ quê thôn Đồng Phú (Độc Lập, Hưng Hà, Thái Bình), ngay lúc sinh thời đã được dân làng Khả Duy (Mộc Bắc, Duy Tiên, Hà Nam) thờ làm Thành hoàng sống và vẫn thờ phụng đến nay.
Một góc làng Ngô Thượng, xã Tiên Nội (Duy Tiên) - quê ngoại nhà bác học Lê Quý Đôn. Ảnh: Thế Trang
Lê Quý Đôn, nhà bác học lỗi lạc thời phong kiến Việt Nam ở thế kỷ XVIII. Ông có kiến thức hết sức uyên bác. Phan Huy Chú - học giả nổi tiếng của nước ta thế kỷ XIX đã đánh giá về Lê Quý Đôn: "Ông có tư chất khác đời, thông minh hơn người mà vẫn giữ tính nết thuần hậu, lại chăm học không biết mỏi. Tuy đỗ đạt vinh hiển, tay vẫn không rời quyển sách. Bình sinh ông làm sách rất nhiều. Bàn về kinh sử thì sâu sắc, rộng rãi, mà nói về điển cố thì đầy đủ, rõ ràng. Cái sở trường của ông vượt hơn cả, nổi tiếng trên đời". Trước và sau ông chưa có ai làm được việc sưu tầm, hệ thống, phân loại tri thức của dân tộc được tích lũy hàng nghìn năm.
Hà Nam tự hào là quê ngoại của nhà bác học Lê Quý Đôn. Cha ông - Tiến sĩ Lê Quý Thứ quê thôn Đồng Phú (Độc Lập, Hưng Hà, Thái Bình), ngay lúc sinh thời đã được dân làng Khả Duy (Mộc Bắc, Duy Tiên, Hà Nam) thờ làm Thành hoàng sống và vẫn thờ phụng đến nay. Mẹ ông - bà Trương Thị Ích, con gái thứ ba của Tiến sĩ Trương Minh Lượng, quê thôn Ngô Thượng (Ngò) xã Tiên Nội (Duy Tiên). Lê Quý Đôn con đầu lòng của ông Thứ - bà Ích sinh ngày mồng 5 tháng 7 năm Bính Ngọ (tức ngày 2/8/1726), có thuyết nói ông sinh ra ở quê ngoại.
Lê Quý Đôn, tên thuở nhỏ là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường được người đương thời coi là "Thần đồng". Tương truyền, lên hai tuổi ông đã biết đọc hai chữ Hữu và Vô; 11 tuổi học sử, mỗi ngày thuộc được tám, chín mười chương; học kinh dịch một ngày thì đọc được phần Cương hình và Đồ thuyết; 14 tuổi đã học hết Ngũ kinh, Tứ thư, sử, truyện và đọc đến cả Bách gia chư tử. Trong một ngày Lê Quý Đôn có thể làm 10 bài phú mà không viết nháp.
Năm Kỷ Mùi (1739), Lê Quý Đôn theo cha lên học ở kinh đô Thăng Long, nơi cha và ông ngoại Trương Minh Lượng đang làm quan tại triều. Xuất thân trong gia đình khoa bảng có tiếng, được người mẹ hiền thục chăm sóc, tài năng của Lê Quý Đôn càng nở rộ. Năm Quý Hợi (1743) lúc 17 tuổi ông dự kỳ thi Hương có sách nói là ở trường thi Sơn Nam và đỗ đầu, tức là Giải nguyên. Thực ra, năm 1741 triều đình Lê Hiển Tông đã đổi Trấn thành Lộ, tách trấn Sơn Nam cũ thành hai lộ mới: Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ. Vậy Lê Quý Đôn dự kỳ thi Hương ở lộ nào? Đó là vấn đề chưa thể khẳng định. Nhưng chúng ta biết rõ lỵ sở của lộ Sơn Nam Thượng đã được chọn đặt trên đất xã Châu Cầu, huyện Kim Bảng (nay thuộc 3 phường Minh Khai, Lương Khánh Thiện, Hai Bà Trưng, thành phố Phủ Lý, Hà Nam). Trường thi Hương theo thông lệ nằm ở lỵ sở trấn lộ.
Sau khi đỗ trường thi Hương, Lê Quý Đôn cưới cô Lê Thị Trang, con gái Tiến sĩ Lê Hữu Kiều ở phường Bích Câu, kinh đô Thăng Long, rồi ở nhà làm nghề dạy học và viết sách. Năm 1769, ông tiếp tục đi thi Hội lại đỗ đầu (Hội nguyên) rồi thi Đình đỗ Bảng nhãn, vì khoa này không lấy đỗ Trạng nguyên nên coi như Lê Quý Đôn đỗ đầu (Đình nguyên). Ba lần thi Hương, Hội, Đình, tên ông đầu bảng, người đời tôn vinh ông là "Tam nguyên".
Đỗ cao, Lê Quý Đôn được bổ dụng làm quan. Ông trải qua nhiều chức trong triều, ngoài trấn, cao nhất là chức Quyền phủ sự (như Tể tướng), được giao coi sóc công việc ở phủ Chúa, tước Nghĩa phái hầu (1778). Việc quan quá bận rộn vì Lê Quý Đôn tận tâm với chức phận, nhưng ông không ngơi nghỉ việc sưu tầm biên soạn, trước tác.
Đầu năm Quý Mão (1783) ông nhận lệnh đi làm Hiệp trấn xứ Nghệ An, rồi về triều giữ chức Thượng thư bộ Công. Vốn ưu thời, mẫn thế thì khoảng thời gian này ông càng nặng lòng băn khoăn, trăn trở trước cảnh triều chính rối ren, kiêu binh nổi loạn, nhân dân đói khổ. Lê Quý Đôn lâm bệnh nặng xin về quê mẹ chữa bệnh nhưng không khỏi. Ngày 14 tháng 4 năm Giáp Thìn, tức 11 tháng 6 năm 1784 ông tạ thế, thọ 58 tuổi. Thương tiếc ông, chúa Trịnh Tông (Trịnh Khải) đề nghị vua Lê Hiển Tông cho bãi triều 3 ngày, cử Tiến sĩ Bùi Huy Bích - một trong những học trò xuất sắc của Lê Quý Đôn về làng Ngô Thượng chủ trì quốc tang.
Lê Quý Đôn để lại cho hậu thế di sản thư tịch đồ sộ bao quát nhiều lĩnh vực, tập thành 40 bộ lớn. Ông đã dành cho quê ngoại Hà Nam sự quan tâm, đưa vào trước tác những tư liệu quý. Bộ "Toàn Việt thi lục" của ông gồm 20 quyển, sưu tập thơ của các thi gia Việt Nam từ thời Lý đến Hậu Lê, trong đó có 6 bài thơ của Tiến sĩ Trương Minh Lượng - ông ngoại; 4 bài của Nguyễn Khắc Hiếu, người Bình Lục, đỗ khoa Minh Kinh năm 1424 đời vua Lê Thái Tổ và 1 bài của Trình Thuấn Du (sẽ nói ở sau). Đặc biệt bộ "Vân đài loại ngữ" - Bách khoa thư, công trình quan trọng bậc nhất của ông có nhiều ghi chép về hoặc liên quan đến phủ Lý Nhân xưa (Hà Nam nay).
Thời xưa, các nhà thiên văn quan sát thiên tượng và các vì tinh tú để định cương thổ các quốc gia, hợp nhất không phận, địa phận trong vòng phân định, phân rã của sao chủ. Theo Lê Quý Đôn cương vực phía Bắc nước ta nằm trong vùng phân rã của Sao Chẩn - sao Nữ. Phủ Lý Nhân nằm trong trấn Sơn Nam và các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc thuộc vùng phân định/ phân rã đúng vào độ thứ 14 phân của sao Chẩn. (1)
Lê Quý Đôn dành nhiều tâm huyết, thời gian cho việc khảo sát, ghi chép về nông nghiệp, ông viết: "Phía Nam có các phủ Tiên Hưng, Khoái Châu, Lý Nhân, Thiên Trường (sau là Xuân Trường), Kiến Xương, Thái Bình, Nghĩa Hưng cấy lúa chiêm, đất ruộng mầu mỡ nghìn dặm, đồng bằng muôn khoảnh, năm cấy được hai mùa, mỗi mẫu sản xuất trị giá hơn 200 quan" (2). Ông cho biết ruộng nước ta có hai thứ: ruộng mùa Thu (tức ruộng mùa) và ruộng mùa Hạ (tức ruộng chiêm), sản ra hai thứ gạo: Cánh là gạo tẻ, nỏa là nhu là gạo nếp.
Trong sách, Lê Quý Đôn ghi chép về rất nhiều giống lúa ở Sơn Nam (có phủ Lý Nhân) như vụ chiêm thì có Sài đường, Di, Dự, Bầu… là các giống lúa tẻ được cấy nhiều. Tẻ mùa có các giống: Tám xoan, tám lùn, tám cánh, tám râu, dé bầu, dé muộn… Lúa nếp cấy được cả hai vụ có nếp bột, nếp đen, bầu hương, nếp cái hoa vàng, nếp lũ, nếp rồng, nếp hương, nếp lùn. (3)
Lê Quý Đôn đã thăm chùa Đọi, đọc bia tháp Sùng Thiện Diên Linh, ta biết được điều này qua những dòng ông viết: "Ở nước ta, phía Tây đô thành có chùa Diên Hựu, năm Long Phù thứ nhất đời Lý (1101) trùng tu lại, cũng chỉ có một cột, xem văn bia Tháp Sùng Thiện ở Đọi Sơn có mấy câu này (dịch nghĩa): "Trông sang vườn Cấm phía Tây, có xây chùa Diên Hựu thờ Phật. Đào ao hồ Linh Chiểu; giữa hồ nổi lên một cái cột đá; trên cột đá nở bông hoa nghìn cánh; trên hoa sen có một cái điện bày bàn thờ; trong điện có pho tượng thếp vàng ngồi trên, ngoài hồ có hành lang chạm vẽ chạy quanh; ngoài hành lang, lại đào hồ Bích Trì, bắc cầu đi qua; hai bên tả hữu sân, ở trước cầu có bảo tháp; vách tháp khảm ngọc lưu ly. Hàng tháng cứ ngày mồng một, vua ngự xe ngọc, ra chùa làm lễ chay, bày hương hoa, làm lễ cầu phúc; sửa soạn chậu nước trầm để mộc dục Phật"(4). Trong sách "Kiến văn tiểu lục" Lê Quý Đôn đã nêu bài văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh trong 17 bài văn bia, minh chuông thời Lý, Trần.
Trong một công trình biên khảo khác, Lê Quý Đôn cung cấp một tư liệu quan trọng về một Nhà khoa bảng Hà Nam thời Hậu Lê: "Tháng 6, năm 1435 bọn Lê Sát thấy vua mới 13 tuổi (tức Lê Thái Tông, húy Nguyên Long - MK), hàng ngày cùng bọn hầu cận chơi đùa trong cung, muốn chọn những kẻ túc nho vào để khuyên bảo vua, nên cùng nhau tâu xin cử Hành khiển Thừa chỉ Nguyễn Trãi, Trung thư Thị Lang Trình Thuấn Du và văn thần năm sáu người, cùng với vài ba đại thần chia phiên nhau vào hầu Kinh diên"(5).
Trình Thuấn Du được Lê Quý Đôn nói đến, hiệu Mật Liêu, không rõ năm sinh năm mất, người thôn Đọi Nhất, xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên nay, vì kiêng húy tên vợ cả của Lê Lợi là Ngọc Trần nên phải đổi họ Trần sang Trình. Ông đỗ khoa thi Minh Kinh (tương đương khoa thi Tiến sĩ về sau) đời vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi), năm Kỷ Dậu, niên hiệu Thuận Thiên 2 (1429). Ông làm quan qua nhiều chức vụ: Trung thư Thị lang, Tuyên lực Đại phu, Nhập nội hành khiển, Hàn lâm viện Thừa chỉ, Tri tam quán sự kiêm Khu mật viện sự. Nhập nội kinh diên. Bộ "Toàn Việt thi lục" của Lê Quý Đôn chép 1 bài thơ của Trình Thuấn Du.
Lê Quý Đôn đã được vinh danh bằng tên đường, phố, trường trung học phổ thông, trung học cơ sở ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước, có cả Trường Đại học Lê Quý Đôn (tức Học viện Kỹ thuật quân sự) tại thủ đô Hà Nội. Hà Nam - quê ngoại nhà bác học Lê Quý Đôn tháng 9/2016 cũng đã gắn biển tên phố mang tên ông ở một khu đô thị mới.
Mai Khánh
(1) Lê Quý Đôn - Vân đài loại ngữ, tập I, Nxb Văn hóa H.N, 1962, tr98.
(2) Lê Quý Đôn - Vân đài loại ngữ, tập I, Nxb Văn hóa H.N, 1962, tr155.
(3) Lê Quý Đôn - Vân đài loại ngữ, tập II, Nxb Văn hóa H.N, 1962, tr 173-177.
(4) Lê Quý Đôn - Vân đài loại ngữ, tập II, Nxb Văn hóa H.N, 1962, tr130.
(5) Lê Quý Đôn - Đại Việt thông sử, Nxb Văn hóa Thông tin, H.N, 2007, tr243.
Mai Khánh, Thế Trang