Sống mãi như những cây trắc bách hương - Ký ức

Những tấm ảnh chụp năm 1929 đã ghi nhận hình ảnh Fidel là một cậu bé khỏe mạnh, tóc ngắn, chải đầu ngôi lệch và bôi gôm bóng nhoáng. Áo sơ mi trắng cổ tròn, bên ngoài mặc bộ đồ dài tay, quần soóc hồ cứng.


Tổng thống Nga Vladimir Putin thăm lãnh tụ Fidel Castro tại Havana năm 2014. Ảnh: vietnamnet.vn

Cậu bé chưa cao quá đường viền của lan can hành lang. Thò đầu nhìn qua những tấm ván gỗ xếp theo hình chữ thập, trông thấy anh chăn bò đang lấy sức cố gắng kéo cho kỳ được Ballena, con bò cái màu "sát thủ" đang cố chống lại không chịu đi bằng tất cả sức nặng của cái bụng kỳ lạ và sự gan lì của cái thân hình hung hăng của nó.

Từ xa, lũ trẻ trong ngôi nhà thích thú ra hiệu khiêu khích tính hung hăng của con vật đang hồng hộc trong cơn tức giận bị kìm nén, đôi mắt thủy tinh mờ và hai bầu vú căng đầy sữa. Chỉ cần Ballena tiến thêm mấy bước nữa là lũ trẻ sẽ phải chạy ngay về phía nhà trong, trốn tránh một sự nguy hiểm không hề có thực. Gà, vịt, lợn và những con bò cái đã ngủ suốt đêm qua dưới tầng trệt như trên con thuyền của Noé, ở giữa những cây cột caguairán.

Những người phu công nhật vắt sữa bò từ buổi sớm mai, sau đó mang đến cho các chú ngựa non, cách đó độ 100 mét. Fidel không bao giờ sợ tiếng gà gáy, tiếng ủn ỉn của đàn lợn, tiếng nghé ngọ của những chị bò cái, tiếng hý của lũ ngựa, cũng như tiếng sủa của lũ chó. Đối với cậu, những tiếng kêu ấy là âm thanh quen thuộc, gần gũi. Cậu dành hàng giờ ngắm nhìn xung quanh như thể với đôi mắt của mình, cậu có thể khám phá được bí mật của mọi sự vật, với lòng ham muốn hiểu biết tự nhiên và kiên nhẫn cùng với sự quả quyết ngoan cường, để hiểu được bất cứ bí mật nào của loài người.

Sau những chiếc bình phong làm đổi hướng từ bậc cửa, ngôi nhà có vẻ như rộng rãi và mát mẻ hơn bởi những khung cửa lớn và nhiều cửa sổ rộng mở trông ra toàn bộ phong cảnh của điền trang. Fidel chạy suốt ngôi nhà cho đến tận nhà bếp, để xin nước trong tủ lạnh bằng gỗ, trong đó giữ nước đá mang từ Marcané, cách xưởng máy đường, sản nghiệp của Công ty Altamira Sugar, khoảng 4 km. Những viên đá trắng trong và cái máy lạ lùng đã giữ được lạnh như thế đã làm cho cậu bé đặc biệt chú ý. Nước được lấy từ con sông Sojo, con sông mà người dân địa phương cho rằng có thể chữa bệnh, thậm chí biến nó thành điều thần diệu, thứ nước uống đưa đến từng nhà. Nước được lọc qua một thùng lọc bằng đá lát có hình dáng như một bóng đèn lộn ngược.

Cậu bé ngửi thấy từ những lối dẫn tới tủ buýpphê và tủ tường, nơi mà người ta làm mát, dưới một tấm lưới dày bằng kim loại, bánh bột của Castilla, bánh ngọt, bánh kem sữa trứng hoặc kẹo sữa đun bằng lửa nhỏ lom dom. Cũng theo con đường ấy để tới nhà ăn và những tủ kính lớn bằng gỗ trắc bách hương và kính, trong đó cất giữ những báu vật, và bát đĩa sứ, dao, dĩa, thìa, muôi, khăn trải các loại, tất cả đều có thêu viền rất đẹp.

Trước kia chỉ có một nhà tắm, nhưng sau đó, người ta làm một đường đi nhỏ ở bên và xây một nhà vệ sinh kiểu nông thôn ở xa đó một chút, trên một hố sâu tối đen và hôi thối. Một nhà vệ sinh khác liền ngay nhà bếp, sực nức mùi nước hoa, cỏ thơm và dầu hoa nhài. Người ta đổ đầy bể tắm nước mưa chứa trong két nước hứng dòng nước chảy theo đường ống viền quanh mái nhà phủ đầy một loại rau muống rừng. Mấy người phu thay nhau bơm nước từ cái giếng sâu lên một tháp nước rất cao bằng một máy bơm tay cho đến khi mệt rũ.

Fidel thích cái phần nhà có nhiều người ở nhất trong ngôi nhà, tại đó, nhà ở kéo dài đến tận bếp. Cha cậu thường đi dọc lối ấy sau khi đã thăm qua tất cả mọi chỗ của điền trang. Mọi người nhanh chóng tập trung, đi lại, vào ra, chuyện trò. Trong nhà ăn, và nhất là ở trong bếp, có sự nhộn nhịp ổn định như trên, nhưng có một chút bất thường khác lạ ở trong nhà khách và những gian nhà khác ở mé đối diện lại quá trống vắng bàn ghế, giường, tủ, gương soi như trăng lặn và im lặng thường xuyên. Căn phòng thuốc có quyền lực như một ma thuật thực sự, có sức quyến rũ của những hương liệu khác nhau, những chai lọ kích cỡ khác nhau và sự bí mật của những loại xirô và nhũ tương để chữa những chứng khó ở.

Nơi lôi cuốn cậu nhiều nhất là gian phòng ở tầng hai, nơi gió bấc thổi vào rất mạnh và quang cảnh rất đẹp. Ở đó, tất cả mọi người ngủ chung. Để lên được trên ấy bắt buộc phải leo lên những bậc thang hẹp bằng những tấm ván gỗ dày, hẹp, đi qua một khe hở, nơi những chú chim giật mình vỗ cánh bay đi.

Những đứa con ngủ chung với bố mẹ ở trên phòng áp mái, nơi có lợi thế mát mẻ, yên tĩnh, một sự tĩnh lặng muốn ngủ vùi, bổ ích. Từ những khuôn cửa sổ lớn có phủ màn kim loại, có thể trông thấy mái lợp tôn của ngôi nhà chính. Khi sinh Angelita, Lina ẵm cô bé lên phòng áp mái cùng hai vợ chồng. Đến khi đẻ Ramón, hai vợ chồng cũng mang cậu bé lên như chị, và sau nữa đến Fidel cũng thế, cho đến khi cả ba lớn lên và ngôi nhà cứ thế sinh sôi nẩy nở thêm những tiên đồng nữa.

Fidel bấy giờ đã không còn hình dáng như tấm ảnh chụp đầu tiên trong đời: đứng cạnh một chiếc ghế bành bằng mây, với một mái tóc uốn quăn, khuôn mặt bầu bĩnh và đôi mắt rất nhỏ, một tay tì trên lưng ghế, mặc một bộ quần áo màu xám, cổ áo và cổ tay áo màu sáng, giày buộc dây và quần đùi trắng. Một chân ở tư thế nghỉ còn chân kia đứng nghiêm. Ngày đó, bà cô Maria Isabel, còn gọi là Belita, đã trải qua một khoảnh khắc đáng sợ nhất trong cuộc đời mình: Fidel lúc đó mới được 8 tháng tuổi, cả cái thân hình bụ bẫm khỏe mạnh lăn từ một bên vai của cô mới 12 tuổi rơi xuống đất. Cô bé Belita lúc đó chỉ muốn chết, nhưng cậu cháu nhỏ không việc gì cả và nỗi lo sợ cũng qua đi. Giờ cô đã trở thành cô gái có chồng, cô Belita đã sống cùng Prudencio Estévez và đi khỏi Birán vì mẹ cô, bà Dominga lên án mối tình của hai người, bởi Prudencio Estévez là một người Cuba rất nghèo khổ, làm phu chặt mía cho các đồn điền mía của tập đoàn; Belita bao giờ cũng cảm thấy hạnh phúc mặc dù gặp nhiều tai họa và gia đình vô cùng thiếu thốn nhưng được xây dựng bằng một chất liệu nhẹ như hơi và bền chắc vô cùng, đó là sự đồng nhất tâm hồn. Thời gian đã khiến cho những điều xa lạ xích lại gần nhau, và cô Belita cùng chồng và các con cô đã đến Oriente thăm bà Dominga và toàn thể gia đình.

Tổng thống Pháp Francois Hollande chụp ảnh cùng lãnh tụ kiệt xuất Fidel Castro nhân chuyến thăm tới Havana vào ngày 11/5/2015. Ảnh: vietnamnet.vn

Những tấm ảnh chụp năm 1929 đã ghi nhận hình ảnh Fidel là một cậu bé khỏe mạnh, tóc ngắn, chải đầu ngôi lệch và bôi gôm bóng nhoáng. Áo sơ mi trắng cổ tròn, bên ngoài mặc bộ đồ dài tay, quần soóc hồ cứng. Bên lông mày trái nhướn lên ngắm nghía, như ngắm một sự huyền diệu và bộ máy trong cái hộp có nhiều nếp gấp, cây phong cầm, đằng sau cái hộp đen thỉnh thoảng lại thấy nghệ sĩ nhiếp ảnh ló đầu nhìn ra. Ông ta cầm một quyển vở hoặc một cuốn sách và trên ve ngực áo có cài một bông hoa.

Thời gian phải nằm trong chiếc nôi bằng sắt đã qua lâu rồi. Trên bốn tuổi, người nhà đem cái giường nhỏ của Fidel đặt ở phía chân giường của Ángel, tại đó, ánh sáng yếu ớt của ngọn nến hoặc chiếc đèn đất le lói sáng đến tận đêm khuya, người cha đọc những cuốn sách dày cộm hoặc những tờ báo đến chậm bỏ bừa bãi như số phận của nó trên bàn ngủ mé đầu giường, trong lúc đôi mắt ông đã bắt đầu díp lại. Ở bên cạnh là giường của Angelita và Ramón, và xa hơn chút nữa là giường của Lina, ở đó, những vị thánh ngồi, đứng ở trên những bức tường, nhìn ngắm với vẻ ngây thơ và bình thản. Ban đêm, hai vợ chồng Ángel vẫn ngủ riêng, nén những khát khao tình ái của họ, không làm gì trước sự có mặt của các con, một cách xử sự đúng đắn hiển nhiên theo đúng phong tục tốt đẹp.

Trong buồng ngủ không thiếu chiếc bình xịt thuốc trừ muỗi, ruồi, gián vào lúc gần tối để tránh sự bất tiện phải căng màn tránh muỗi trên giường.

Sau những ngày Năm mới, những ông đạo sĩ từ miền Viễn Đông tới tận ngôi nhà rộng của điền trang, tức thì nho, táo, kẹo bánh và một vài thứ đồ chơi đơn giản chiếm một chỗ bên cạnh cây phát ra những tia chớp sáng quắc và phủ đầy những nụ tuyết trắng tinh đặt trong phòng khách, như thể món quà bất ngờ khi ngủ dậy buổi sáng ngày hôm sau: mùng 6 tháng Giêng trong truyền thuyết và những truyện hư ảo tuyệt vời.

Buổi sáng khi thức dậy, Ángel bao giờ cũng ăn một quả cam. Ông có thói quen không thể vi phạm: gọt cam, xay cam trộn bicácbônát hoặc glucô và phơi sương ở bậc cửa sổ. Làm như vậy, sáng hôm sau, món nước quả này trở thành món đồ uống ngọt mát tuyệt vời.

Người cha biểu lộ sự âu yếm của mình một cách lặng lẽ, không lời. Ángel ít khi mắng mỏ hoặc cãi vã. Trong ông, có điều rất ý nghĩa là bao giờ cũng túi bụi công việc và lo toan mọi thứ. Cá tính dễ cáu và cái tập đại thành của một con người nghiêm khắc đã khiến cho xung quanh kính nể ông. Tuy nhiên, ông vẫn chải mượt tóc cho mấy đứa con bằng một thái độ nâng niu, vuốt ve như đối với những bông hoa, và khi chúng cảm thấy cần thiết được che chở khỏi một trận mắng mỏ, thì không nghi ngờ gì hết, chúng sẽ lẩn trốn ở sau lưng ông, con người mà chúng đã công nhận là một sự bảo vệ chắc chắn.

Theo những người làm công ở điền trang, có lần Angelita, Ramón và Fidel đều bị ốm vì một căn bệnh giống nhau và Ángel như sống lại những ngày ghê sợ, nhớ lại cái cảnh mấy đứa con đã chết. Có người khuyên phải cho uống nước cam, hoặc sắc nước vỏ cam uống cho nhẹ bớt cơn nóng sốt và những cơn nghẹt thở, nhưng khi ấy không tìm thấy ở đâu có cam, người ta nói rõ là phải chờ mua ở nơi xa nào đó mang về, sự chờ đợi không thể nào chịu được mà Ángel phải chịu đựng một cách ghê sợ, và cho rằng đó là một sự thiếu dự kiến không thể tha thứ được của mình. Khi lũ trẻ khỏi bệnh, Ángel đã quyết định sẽ trồng ngay 15.000 cây cam, một sự thừa thãi quá mức cái thứ quả coi như một phương thuốc hiệu quả chữa cảm lạnh, tránh được bệnh sưng phổi, hoặc một số bệnh khác. Bây giờ từ sân sau của điền trang trải dài một rừng cam bát ngát hương thơm mà hai vợ chồng Ángel và Lina luôn chăm sóc rất cẩn thận. Câu chuyện này có thể có thật, nhưng cũng có thể chỉ là một truyền thuyết hư cấu, bởi vì ở Oriente đã có những vườn cam từ khi những người nhập cư Nga và NaUy xây dựng điền trang của họ ở đây.

Năm 2013, tại La Habana, cựu Tổng thống Brail Luiz Inacio Lula da Silva (phải) có cuộc gặp với lãnh tụ Cuba Fidel Castro. Ảnh: TTXVN

Người mẹ thường quát mắng, hoặc trừng phạt, song những đứa con vẫn nhận thấy người mẹ gần chúng hơn. Còn người cha có một vòng hào quang quyền lực, dù rằng ông không hề đặt ra kỷ luật, cũng không cấm đoán con cái điều gì.

Với mẹ, lũ trẻ đối xử tự nhiên và tin tưởng hơn. Người mẹ thiết lập trật tự và giờ giấc, đắp chăn cho các con vào giờ ngủ, tắm rửa và mặc quần áo cho chúng, đoán trước những ý định của chúng, cho đến cả việc chạy theo chúng, cho chúng mấy cái bạt tai khi chúng đã quá mức trong những trò chơi tinh nghịch như quỷ sứ, nhưng cũng ít khi tóm được chúng, bởi vì bọn trẻ, nhất là Ramón và Fidel, đã hiểu rõ mẹ mình, nên bao giờ cũng chạy thoát khỏi phải chịu những hình phạt của bà.

Lina đem tất cả tấm lòng nhân từ vào sự chăm sóc và yêu thương con cái và không quên bổn phận của người cai quản ngôi nhà. Hơn nữa, bà còn biết chữa những bệnh khó ở và đau ốm thông thường, như cho uống thuốc tẩy nước Carabana, hoặc vài thìa dầu thầu dầu đặc sánh và lợm giọng cần phải trộn rượu ngọt và bịt mũi mới uống được mà không nôn oẹ. Hàng ngày, bà mẹ cung cấp vitamin cho các con, và thỉnh thoảng lại cho uống nhũ tương Scott, một loại thuốc của Mỹ, màu trắng sữa, đặc sệt, làm bằng dầu gan cá thu và đường, mua ở hiệu thuốc của Castellanos, tại Marcané. Bà mẹ bao giờ cũng kịp thời biết món hàng mới lạ nhất và nắm rõ truyền thống của những hiệu thuốc tốt và đặc biệt nhất ở trong nước.

Castellanos là dược sĩ từ San Andrés thuộc Holguín đến. Những đàn ông trong gia đình đều tham gia lực lượng Quân Giải phóng Cuba, còn phụ nữ và trẻ em sống ở những trại của nghĩa quân được lập nên tại vùng rừng núi. Người cha của ông chủ hiệu thuốc đã đi theo đội quân của Menocal, khi trở về bị cụt hai chân. Ông là một người có quyền lực, nghiêm khắc và cá tính bền bỉ dẻo dai, sau chiến tranh trở về trông coi chăm sóc điền trang và làm thẩm phán hòa giải.

Một trong số những con trai của ông, hãy còn thanh niên, nhận được một suất học bổng của Nhà thờ Bautista America đã đi sang học ở một thị trấn nhỏ của Illinois, tại đó học hết trung học và đại học. Ông tốt nghiệp khoa Dược và Hoá dược học năm 1916 tại Đại học Tổng hợp Valparaiso, bang Indiana. Khi đến Cuba, ông được xác nhận học vị ở La Habana, rồi đến sống và làm việc tại Preston, trong nhà máy của Công ty Liên hợp Trái cây. Tại đây, ông đã quen biết người mà ông lấy làm vợ, sau đó, hai vợ chồng đi đến Marcané, mở cửa hiệu bán thuốc và sinh ra những đứa con.

Cửa hiệu thuốc là một ngôi nhà hai tầng, nơi bán thuốc ở tầng trệt và nơi sinh hoạt của gia đình nằm ở tầng trên. Thật là thú vị khi đưa mắt nhìn qua gian hàng với đầy giá, kệ và quầy hàng bằng gỗ trắc bách hương, những ống tuýp để thử nghiệm và những chai lọ bằng thủy tinh Bohemia được gọi tên là "mắt dược sĩ".

Phần lớn thuốc của nhà thuốc ở Birán lấy từ nhà thuốc của Castellanos. Những đứa trẻ bị lóa mắt bởi rất nhiều loại lọ, bởi ánh sáng của các kệ thủy tinh được sắp xếp mỹ thuật không thể chê được và những mùi hương thuốc. Fidel bị lôi cuốn bởi cái nhãn hiệu của lọ nhũ tương Scott, trên đó có vẽ một người đánh cá cõng trên lưng một con cá thu rất to.

Lina chăm sóc Ángel rất cẩn thận và chỉ cho chồng biết nước sắc cây ngưu bàng ở Baracoa, một loại cây nhỏ bé rất tốt cho thận, cũng như nước dừa mà người nông dân thường khuyên khi không có thầy thuốc phải chữa trị bệnh tật bằng cỏ, quả và những thứ lá, rễ cây trên rừng.

Tự tin, linh hoạt và đầy cá tính, nhưng đôi khi Lina cũng lo ngại, bởi vì không phải lúc nào cũng trông chờ vào mình để chữa khỏi bệnh cho những đứa con và chồng. Lúc đó, bà tìm tới Chúa và cầu nguyện một cách tuyệt vọng, nhưng vẫn không chùn bước, vẫn tìm cách cứu chữa bằng mọi cách: lễ rửa tội, thuốc sắc từ thảo mộc, và xoa bóp mà một chị nông dân rất giỏi về môn này đã truyền cho và bà tận tâm thực hành trên những cái bụng ỏng trên những chỗ sưng tấy ở đầu gối.

Những đứa trẻ, còn bé, cũng chủng phòng đậu mùa. Vết chủng cho Fidel sưng tấy lên đến có mủ và để lại dấu vết của nó suốt đời tại chân bên phải.

Không có một khả năng nào tránh khỏi bệnh bại liệt, bệnh dịch tả hoặc bệnh uốn ván. Một số người khẳng định rằng có lẽ những vết thương nhỏ, nhiều và tái phát, sẽ tạo ra sự miễn dịch của cơ thể khỏi cơn nguy hiểm mắc bệnh cứng cơ, nhưng không có ai chứng minh được vấn đề này.

Những điều bất hạnh thường đến cùng những trận dịch. Để trừ bệnh sởi, người ta cho uống nước râu ngô. Bệnh thủy đậu đòi hỏi phải điều trị bằng cách bơm thuốc rửa ruột liên tục. Một số người nói sốt rét có thể chữa khỏi bằng cách tắm nắng mặt trời cho toát mồ hôi. Những vết thương chữa bằng mật ong và những lá cao có tác dụng tức thì, nhưng rất nhiều lần, những phương pháp chạy chữa ấy không điều trị được bệnh uốn ván.

Đối với những bà đẻ cũng như vậy. Cầu xin các đức mẹ đồng trinh, các đức thánh tông đồ và những thánh tử vì đạo cũng chẳng cứu sống được cô chị gái của Lina: Antonia, vợ của Jose Soto Vilarino, một người Tây Ban Nha ở miền Valladolid, quản gia chính của Ángel tại điền trang. Antonia, mẹ của Luis, Ana Rosay Clara - chết bởi sốt rét hậu sản, ít lâu sau, khi sinh ra một bé gái đặt tên là Maria Antonia. Bé được bọc trong cái tã của trẻ sơ sinh và được đưa đến sống với ông bà Dominga và Pancho, lúc đó đã già. Hai ông bà nuôi đứa cháu gái thật nghiêm khắc theo khuôn phép gia đình và cách cư xử chặt chẽ của thời trước.

Ngày 8/6/1929, khi chưa đầy 3 tuổi, Fidel ngắm nhìn một cách ngạc nhiên những bức ảnh trên tường, những tranh in về tôn giáo và những ngọn nến trong tang lễ. Cậu không hiểu được ý nghĩa của tất cả cái bi kịch ấy, tiếng than khóc và nỗi buồn trong ngôi nhà của ông bà và chú thím, sự tập trung của tất cả mọi người trên đồng mía, nơi mà phải đi một hồi lâu mới tới, trên một lối mòn nhỏ hẹp, tiếng khóc cũng như bước đi đều đều, đơn điệu, buồn tẻ và hình như vô tận.

Cậu bé không tưởng tượng được cái chết trong thời gian đau buồn đó, những giọt nước mắt và mùi hoa huệ trắng úa héo rơi xuống nước. Không có ai chịu rước lấy cái phiền đi giải thích cho cậu bé, người ta cầu khấn Chúa và tin vào điềm xấu và thần thánh. Tụi trẻ con không biết gì cả, không ai chuyện trò với chúng cả. Chúng học trong đời sống bằng trực cảm và kinh nghiệm.

Sau đó, Clara đến ngôi nhà lớn như thể một sự chiếu sáng cho những ai nhớ lại những ngày sung sướng nhất của Antonia. Clara được 3 tuổi, Lina đưa cô bé về sống ở Birán cùng Maria Antonia, cô bé mới ra đời mà Nemesia Vargas đã nuôi mấy tuần lễ đầu tiên như thể bà vú em. Lina cho rằng giúp đỡ gia đình trong việc nuôi nấng những đứa cháu mồ côi là đúng thôi, nhưng chỉ ít lâu sau đó, bà phải đi Santiago và vào nằm bệnh viện Los Ángeles để mổ ruột thừa. María Antonia mới được mấy tháng nên mọi người quyết định lại gửi cháu lên với bà Dominga, bởi vì cháu còn bé quá, đòi hỏi phải có một sự quan tâm chu đáo hơn.

Lúc bấy giờ hai ông bà mới đến điền trang. Ángel giúp Pancho xây dựng ngôi nhà mới, tại đó, gia đình họ Ruz cầu nguyện cho linh hồn của Antonia mà Chúa đã mang theo lên trời.

Clara ở lại ngôi nhà lớn cho đến khi cô lập gia đình hơn 20 năm sau đó. Fidel lúc đó rất thích những bậc cầu thang dốc để bước lên tầng trên, ở đấy ngắm nhìn đến tận chân trời, không để ý đến tiếng khóc của Clara, cũng như sự mất ngủ và nỗi buồn của cô bé, mà chỉ chú ý đến sự hưng phấn của mình và vui sướng được đón một ai đó chạc tuổi của mình như là một vận may.

Lina không bỏ việc cầu kinh cho tất cả mọi người trong gia đình trước bức tranh chí Thánh tâm của María. Từ tháng 5/1926, chính quyền Machado ra sắc lệnh giảm bớt việc sản xuất đường cùng với sự rủi ro về kinh tế, việc này đã làm nảy sinh những tai họa không thể tưởng tượng được.

Đối với Ángel, ông không thể từ chối một sự cầu xin khẩn thiết, bao giờ ông cũng thương hại và ra lệnh cho cửa hiệu hoặc tự mình tìm kiếm công việc cho những người chưa có việc làm, bởi vì nhu cầu mía năm 1926 - 1927 và vụ năm 1928 - 1929 giảm sút một cách khốc liệt. Ông sẵn sàng đồng ý cho nông dân đến ở và cày bừa một mảnh đất nhỏ trong điền trang của mình, để tự cung cấp lương thực, thực phẩm cho gia đình họ, dù cho bình thường người ta làm việc ấy ở những mảnh đất thuê của Carlos Hevia, gần giống như một sự để dành lương thực, thực phẩm cho nhu cầu của những ngày sắp tới. Tại Manacas, tài sản của ông chỉ có một mình Marcelo López, người bạn rất tin cẩn của Ángel, giờ ông ta đã lên giữ chức quận trưởng và ông ta sẽ đăng ký cho một số đông nông dân làm việc ấy.

Ángel là một người rộng lượng, mặc dù hoàn cảnh kinh tế của ông lúc đó cũng khó khăn. Những người làm phu, những người chăn bò, và những người cày ruộng đều công nhận Ángel là một "ông chủ rất tình cảm". Vợ ông nhận thấy những điều nguy hiểm nên bà hoạt động một cách thận trọng hơn, có lẽ do bản năng làm mẹ phải bảo vệ sự tiện nghi và sung sướng cho các con mình. Lina quản lý tiền nong chặt chẽ, và bản thân bà cũng không còn theo đuổi những người bệnh ốm, đảm đương việc chăm sóc những người bất hạnh và nuôi dưỡng những đứa trẻ mồ côi trong địa phương.

Ángel đi đến Santiago de Cuba tháng Mười một 1928, để tự thừa nhận trước luật sư và công chứng viên của tỉnh, tiến sĩ Eduardo Vinenty Julia, rằng mình là con nợ của Fidel Pino Santos số tiền là 120.000 pêsô trong thời hạn 5 năm - bắt đầu từ ngày ký văn tự kéo dài đến 5 năm nữa - và phải đóng góp cho Fidel một số tiền lãi là 8% một năm, trả vào cuối tháng tại nhà người chủ nợ, nơi đã ký kết trách nhiệm trả nợ như trong hợp đồng này.

Ángel đã phải đem cầm điền trang của mình lần thứ hai, để bảo đảm trả đủ lãi lần thứ nhất và 4.000 pêsô nữa, để chi cho phí tổn nếu có xảy ra kiện cáo.

Cả Ángel và Fidel Pino Santos đều được công nhận như hai người bạn thân tín và nói chuyện với nhau không cần những người khác phải tham gia vào những kế hoạch hoặc hợp đồng của họ. Chẳng ai biết thật chắc chắn mối dây nào đã liên kết hai người, cũng như ý đồ mà họ đang thực hiện là gì. Điều đã rõ ràng thật sự là hai người đã thăm viếng và đối xử với nhau thân thiết như trong một gia đình. Fidel Pino Santos bao giờ cũng được tiếp đãi ân cần ở Birán, cũng như người con trai thứ ba của Ángel và Lina có lần đã gọi ông là cha đỡ đầu. Ángel cũng thường hay đến thăm vợ chồng ông Fidel Pino Santos và Exuperancia Martínez Gandol tại ngôi nhà số 42 phố Carona, thành phố Santiago de Cuba. Mười hai năm sau, Fidel Pino Santos góa vợ, Lina Ruz đến dự đám tang cùng Angelita lúc đó 14 tuổi.

Dù rằng giữa ông Ángel và ông Fidel Pino Santos có những mối liên hệ rất tốt, nhưng tình hình vẫn rất căng thẳng đối với người mắc nợ và điều đó chỉ có thể nhận biết được khi Ángel đi qua điền trang của mình, hoặc đi để giải quyết việc làm ăn với những ông chủ cung cấp hàng hóa cho mình, những ông chủ các cửa hiệu lớn tại khu phố cổ ở La Habana.

Tại Thủ đô, chỉ trong một lần mà ông giải quyết mấy việc: đến bác sĩ để khám lại phế nang và trả tiền đóng góp vào Trung tâm Người Galacia tại La Habana mà ông đã tham gia từ năm 1909, lúc đó đã 33 tuổi, chưa lấy vợ.

Trong bức ảnh căn cước của Ángel, vẻ mặt khô sắc đã lộ rõ vẻ cô đơn của một con người không gia đình, với mái tóc cắt ngắn, áo vét vải kẻ ô vuông, sơ mi có khuy cài đến tận cổ. Những quy định theo đúng điều lệ của Trung tâm lập thành một khế ước dài dằng dặc. Để sử dụng những quyền lợi xã hội, kể cả những quyền về y tế, phải có điều kiện thiết yếu là xuất trình giấy biên nhận. Những hội viên đã gia nhập hội hơn 50 năm không có quyền được y tế chăm sóc chạy chữa nữa. Giấy biên nhận có in ở đằng sau một bản hướng dẫn tới những địa chỉ như Trung tâm Xã hội, Nhà Y tế La Benéfica, Vườn ươm cây giống, lai giống Concepción Arenal, Phòng khám của bác sĩ chuyên khoa, Phòng thí nghiệm Bệnh viện Thực hành và Văn phòng luật sư.

Đêm Noel năm 1929, Ángel sẵn sàng đưa thức ăn tới tất cả những nông dân trong khu điền trang. Nếu không làm như vậy, phần lớn trong số họ sẽ không có một chút gì đặc biệt cho đêm lễ hội: đó chỉ là một món bánh ngô và một ít khoai tây, bởi vì với sự xuống giá đường đột ngột, mọi thứ hàng hóa khác đều đắt hơn, nhất là xà phòng, dầu ăn, thịt và bột mua vét và bán lại bởi những con buôn tích trữ đầu cơ với cái giá không kham được.

Có những người không muốn mắc nợ, và một số khác nữa không dám đến tận cửa nhà để xin ông Ángel Castro một món tiền ứng trước nữa. Ángel thường ngồi lì trên chiếc ghế bành bằng gỗ panma và mây đan lại hàng hiên, ngay trước cửa nhà, nơi ông đã quen cho quà một cách vô tư hào hiệp như vậy.

Cậu con trai Fidel của ông nhớ rất rõ, vừa mới được Lina cạo mặt và chải đầu cho ở phòng bên cạnh buồng ngủ, văn phòng nơi ông già đang thảo luận về những công việc bầu cử và thuế má, cùng với tất cả những nhà chức trách vừa mới từ trên thị xã về thăm. Ông già cũng ăn trưa, tối và đánh những ván bài đôminô vào buổi tối ở đấy. Đêm Noel, cậu con trai thấy ông già vẻ mặt vui tươi thỏa mãn, dù cho lần này người ta không nghe thấy tiếng cátanhét rộn rã và những điệu nhảy của các vũ nữ Tây Ban Nha, cũng không có tiếng hát giọng nam cao người Italia Enrico Caruso trong đĩa hát của chiếc máy hát RCA Victor để trên ngăn tủ trong nhà ăn tiếp khách, một món đồ chơi thật sự hấp dẫn dù rằng sợi dây cót bắt buộc phải dừng lại, khi kết thúc một giai điệu du dương.

Đã trải qua rất nhiều năm, kể từ năm 1877, Thomas Alva Edison thu đĩa bài hát thiếu nhi "Mari có con cừu non'' trong cái máy hát đầu tiên, đơn sơ nhất trong những chiếc máy hát được tạo ra. Sau đó, nó lan tràn tới tất cả các ngày lễ hội, rạp xiếc, quán cà phê và những quầy rượu, ở đó người ta bỏ vào rãnh máy mấy đồng xu, đặt bên tai mấy ống nghe và lập tức nghe được cái thứ âm nhạc tuyệt vời bay ra từ chiếc hộp đó, tiếng ngâm thơ tao nhã, những câu chuyện thần tiên và ma quái.

Vào năm 1904, Caruso, nghệ sĩ duy nhất của Hãng RCA Victor, bắt đầu đem bán chiếc máy hát đầu tiên có một miệng loa trông như một chiếc kèn trompét, mang tên là Victrola, giống hệt như cái máy để lặng yên trong phòng khách của ngôi nhà lớn ở Birán đêm 24/12/1929, khi mà đến cả không khí cũng im lìm tang tóc vì cái chết của Antonia Ruz.

Trên tấm bảng đen ghi tháng Chín 1930. Fidel vào học trường Bán công Nông thôn số 15 ở Birán. Đôi mắt của cậu bé biểu lộ cảm giác bỡ ngỡ và bị quyến rũ bởi khả năng được học tập. Cậu được ngồi một chỗ ngay hàng đầu những bàn viết bằng gỗ khung sắt hình dáng như đợt sóng. Lưng tựa của chiếc ghế trước dùng làm khung đỡ cho cái khay để viết cho chiếc ghế hàng sau. Vì đây là một phòng học cho nhiều lớp trình độ khác nhau nên người ta chú ý đến tất cả những vấn đề riêng biệt tùy thuộc trình độ và tuổi của bọn trẻ mà hướng dẫn, trí nhớ của từng đứa trẻ có thể ghi nhận được một cách nhanh chóng và không thể phai mờ những hiểu biết mới.

Trường học nằm trong một căn nhà gỗ, mái tôn, khung nhà là những thân cây gỗ lớn đặt trên một nền đất không bằng phẳng, đầy đá tảng và bùn lầy. Những tấm bảng đen nhỏ đặt vừa khuôn cửa sổ, đủ để cho 25 học sinh ở cánh trái, tại đó còn có những kệ sách và bàn giấy của bà giáo đằng sau có quốc huy và cả một phòng tranh ảnh chân dung những nhà yêu nước Cuba: José Marti, Antonio Maceo, Máximo Gomez, Calixto García và Ignacio Agramonte với biết bao nhiêu những anh hùng của những cuộc chiến tranh giành độc lập.

Angelita và Ramón, anh chị lớn, cũng phải học ở đấy, và vì không có lớp nào khác cho Fidel nên cậu bé phải ở lại đấy buổi sáng, buổi chiều cùng với Carlos và Flores Falcon, Pedro Guevara, Luis Soto, Pedro Pascual Rodriguez, Dalia Lopez và một số đứa bé ở độ tuổi khác nhau, hầu hết đều là con em của những gia đình nông dân của điền trang. Sau đó, lại có thêm Norberto Gomez, con trai người thợ máy Antonio; Melba Verelo, con gái nhân viên bưu điện của Birán, và cuối cùng là Clara, cái tên của cô bé đối với mọi người có âm hưởng của ngọn đèn pha hoặc buổi bình minh. Khi lớp học gần xong có thêm nhóm Luis và Rolando Lid Colón.

Đến buổi chiều, tất cả đi tắm tại một dòng nước hẹp và không sâu của con sông Manacas, trong một vũng có đá tròn nhẵn ở dưới mặt nước. Cùng tham gia nhóm này có hai chị em họ Ana Rosa và Luis, hai người cháu mà bà Dominga cho phép tới nhà thím Lina với lời dặn trước là phải về sớm và xử sự tốt với nhau.

Đó là một bọn trẻ ồn ào và sung sướng được gia nhập những cuộc phiêu lưu và tòng phạm. Không cần biết rằng những đứa này là con của ông chủ điền trang, còn những đứa kia là con của những người làm công, cũng không cần biết đứa này thì da trắng, những đứa kia thì da đen hoặc lai. Chúng chơi chung vui với nhau một cách tự do như chúng thở cho đến thỏa thích trong một cuộc sống tự do phóng khoáng. Chúng là bạn với nhau, không có gì khác nhau và cũng không có phân biệt chủng tộc.

Ángel và Lina đều xuất thân nghèo khổ, họ làm việc và sống cùng những người dân thường, dù rằng đã có được một địa vị chỉ huy và cả một gia sản lớn là điền trang này, họ vẫn là những con người gần gũi không có cái văn hóa độc quyền của những ngài địa chủ từ trong nôi, và những đứa con của họ đều lớn lên cùng với dân lao động bình thường.

Những đứa con của họ được nuôi dưỡng trong vòng tay chăm sóc vỗ về như con cái của một gia đình giàu có, nhưng không bao giờ họ cấm chúng chơi đùa, chạy nhảy, săn bắt chim, tắm trong một dòng sông, kết bạn và tạo ra những mối thân tình lâu dài với những đứa trẻ trong điền trang. Cũng chẳng có một người nào chuyên vào việc trông coi chúng cho nên chúng được tự do cả ngày, chỉ có duy nhất một nhiệm vụ bắt buộc là không được vắng mặt trong những giờ ăn trưa và tối. Chúng hòa quyện vào cùng tất cả, ở mọi nơi trong cái thiên nhiên vang tiếng rào rào của những cây minh quyết, cây chàm, cây xoài, cây vú sữa, cây cam, cây nhũ hương và cây trắc bách hương.

Từ lúc đó, đã có sự khác biệt là một số đi giày, mặc quần áo đẹp, ăn không thấy ngon, và một số khác, nói thẳng ra là đi chân đất, mặc quần áo cũ sờn rách và lúc nào cũng thấy thèm ăn. Tuy nhiên, cũng không ai trong chúng tự hỏi tại sao mọi sự lại xảy ra như vậy, ít nhất là những đứa trẻ nhỏ, đối với chúng, tất cả những điều đó chỉ là điều tự nhiên thôi.

Ông Fidel Castro trò chuyện với Tổng thống Nam Phi Nelson Mandela sau khi phát biểu trước quốc hội Nam Phi ngày 4/9/1998. Ảnh: tuoitre.vn

Engracia, cô giáo đầu tiên của Fidel có dáng vẻ mảnh mai và hết sức dịu dàng. Cô còn rất trẻ và rất yêu mến lũ học trò của mình. Fidel yêu cô bằng một tình yêu ngây thơ và hồn nhiên của trẻ con; cậu bé hạnh kiểm tốt, luôn luôn im lặng, hầu như có vẻ uể oải, lắng nghe từng câu nói, từng câu chuyện hoặc một giai thoại, rất chú ý ở trong lớp. Sau đó đến cô Miguelita, rồi sau nữa là Pepe Sanchez, một nhân viên bưu điện chuyển đến, cuối cùng là Eufrasia Feliú Ruiz, một cô giáo chưa chồng được đào tạo bởi nền giáo dục nghiêm ngặt của Pháp, cùng tính cách cay nghiệt riêng của cô. Cô ấy có yêu cầu cao đối với lũ trẻ và cả đối với bản thân. Cuộc đời của cô rất cô đơn và buồn tẻ. Những năm tháng qua đi và việc nuôi dưỡng một đứa cháu đã làm thay đổi rất nhiều con người của cô: tiếng nói của cô đã nhẹ nhàng hơn, vẻ mặt của cô còn nghiêm nghị, nhưng cũng hiền từ và nhu mì hơn.

Có lẽ vì vẫn còn bé, Fidel cảm thấy ở đấy cả một sự thiếu kiên nhẫn và cái cảm giác khó chịu đến bốn hoặc năm năm của mình, và vì không thích Eufrasia, bởi lẽ cô ta đã phạt lũ học trò, bắt phải quỳ xuống đất và bắt đứng quay mặt vào một góc lớp. Cậu bé nổi loạn, bật ra một tràng tiếng Pháp thô tục mà cậu đã học của lũ bạn người Haiti và người chăn bò, rồi nhảy qua cửa sổ bỏ trốn ra ngoài hành lang, chạy trốn tận cuối ngôi nhà lớn. Cậu nhảy qua hàng rào và: "Xin chào hình phạt nhé!". Một hôm số may không đến với cậu, nên cậu bị ngã trên một thùng nhỏ bằng gỗ và bị một cái đinh cắm vào lưỡi, cái lưỡi mà cậu dùng để tuôn ra một lô câu chửi rủa. Cậu bỏ không đi trốn mà về thẳng nhà. Lina không khuyên giải cậu, chỉ nói:

- Chúa đã phạt con đó!

Và Fidel cảm thấy như thế thật, Chúa là một đấng tối cao nhìn từ trên xuống và quyết định mọi số phận, hoặc thiên đường hoặc địa ngục cho cả lũ trẻ con.

Mặc dù đã đi học từ trước, nhưng mãi đến ngày 5 tháng Giêng 1932, Fidel mới ghi tên chính thức lần đầu tiên vào ngôi trường nhỏ, tại đấy, cậu đã học chữ số và chữ cái và bắt đầu biết đọc mà chẳng nhận thức được điều ấy. Qua học kỳ thứ hai của năm đó, trong sổ đăng ký, một quyển sách to bìa cứng màu da cam có kẻ dòng bằng mực nâu đã thấy có ghi tên cậu, 6 tuổi, mà thực sự cậu mới có 5 tuổi. Ngày 28/4/1932, cậu đã bắt đầu học kỳ ba của năm học mà người ta mới sửa trong bản đăng ký: đây là một nhầm lẫn, phải sửa chữa như sau: bên cạnh tên của cậu có ghi 5 tuổi.

Nếu trong lớp không có gì thú vị, hai mắt cậu lại dõi theo những hoạt động trong điền trang qua cửa sổ đến tận cổng lớn, đến tận sới gà chọi, tại đó, người ta đang dội rượu vào những chú gà chọi để chúng bốc lên giữa trận đánh. Trong lúc đó, cậu đang tưởng tượng đến những đôi cánh màu sắc rực rỡ, những cái mào dựng đứng và sự phấn khích cuồng nhiệt của công chúng trước mỗi cú mổ, mỗi cái đạp ngoạn mục. Trong khi mơ tưởng, cậu đi đến tận chỗ buôn bán trên Con đường đến Cuba, từ chỗ đó, lại nghe thấy tiếng lách cách của nhân viên bưu điện Varelo trên phím chữ của chiếc máy Underwood, hoặc những tiếng tạch tè, tạch tạch tè khó hiểu của cái máy "moóc" mà mấy năm sau đó, Pedro Botello Pérez giữ gìn rất cẩn thận.

Nhiều lần, Fidel hồi tưởng những giây phút cảm động ở gia đình, khi Raúl Modesto ra đời, gợi lên những tình cảm buồn vui. Trong tưởng tượng, Fidel quay lại sống lại ngày 3/6/1931, khi Ángel tự trấn tĩnh bằng cách xoay xoay cái mũ từ tay nọ sang tay kia. Lúc đó đã sáng rồi mà Lina vẫn chưa trở dạ đẻ. Cũng từ từ như giọt sương tụ lại trước khi rơi, cuộc sinh nở tiến hành chậm chạp. Những tiếng động hàng ngày đã thức dậy trong nhà máy đường. Isidra Tamayo cứ một lát lại thay một tấm khăn đẫm mồ hôi, mùi cồn và nước khử trùng, khuôn mặt thoáng vẻ bối rối.

Fidel không hiểu được tầm quan trọng của điều đang xảy ra, cậu giữ thái độ mong chờ ở ngoài hành lang, có lẽ có cả Ramón và Angelita ở bên cạnh. Đúng 1 giờ chiều, mấy cô cậu nghe tiếng khóc của đứa bé mới sinh. Isidra cho biết tin mới với một nụ cười mở rộng, làm cho Fidel đoán được sự vui mừng: "Cả hai mẹ tròn con vuông rồi!". Trong lớp học, cậu bé mỉm cười và bất thình lình nghe thấy một giọng nói như sấm: "Hãy chú ý ngay lập tức, cô đang nói với em đó", cô giáo quát lên một cách giận dữ và cắt đứt cơn mê "trở về" của Fidel. Cô mắng cậu bé vì đã ở trên mây gió, hoặc ở một thế giới nào đó mà Chúa cũng chẳng hay, và cô nhấn mạnh việc học tại Santiago de Cuba, tại đó, cô cho là có nhiều hy vọng được quay trở lại, ở đó, người ta phải học cho ra học và nghe lời các thầy giảng, không thể tự cho mình được phép mê mẩn như ở trên mây trong lớp học.

Ngày 3/6/1932, đúng vào ngày mà Raúl, cậu em bé nhất của Fidel tròn một tuổi, Fidel kết thúc năm học lớp 1 tại trường Bán công Nông thôn số 5. Ngày khai giảng cậu hát "Quốc ca", với dáng điệu nghiêm trang và long trọng, lên giọng những đoạn thơ một cách hồi hộp, cảm động. Cậu cũng ngâm một số bài thơ của Thánh Tông Đồ José Martí, giọng ngâm của cậu có sự chính xác của những chiếc đồng hồ và cái cảm xúc của những người thành thực.

Nhìn đăm đăm vào những hình ảnh mà những đám mây tạo nên trong không gian, Ángel lên tàu từ ga xe lửa Alto Cedro để đi Santiago. Ông ngồi yên lặng nhìn cảnh vật trôi qua trước mắt mình: cánh đồng mía mênh mông, những ống khói nhà máy đường, những túp lều của nông dân, những cô gái nông thôn phơi quần áo mới giặt trên những tảng đá ven suối, những nông dân cưỡi ngựa, những cột đèn tắt lửa giữa ánh sáng ban ngày, trong lúc những chiếc xe ba gác đủng đỉnh đung đưa, đi lên chậm chạp. Đắm mình trong những suy nghĩ lo toan, Ángel đã đến thành phố lúc nào mà không biết. Hầu như Ángel không thể tin rằng thời gian đã đi qua và hành trình tới Santiago de Cuba đã kết thúc. Ángel xua tan giấc ngủ và rảo bước tới một khách sạn nhỏ quen thuộc. Sau khi suy nghĩ và tìm cách có thể giải thoát được tình thế hiện nay của mình, ngay chiều hôm ấy, Ángel đến nhà của Fidel Pino Santos, để tiến hành những thỏa thuận sơ bộ. Ngày hôm sau, hai người còn phải đến văn phòng luật sư và công chứng viên, tiến sĩ Eduardo Vincent y Julia. Kỳ hạn trả món nợ đã hết và họ phải chấp nhận một quyết định mới.

Gia đình Fidel Pino Santos sống trong một dinh thự có cột cao to và kính màu vẽ hoa. Người đến thăm tới nhà vào lúc đầu chiều, khi tiết trời đã bắt đầu giảm độ nóng và gió nam nhẹ thổi vào khoảng 4 giờ. Không có ai đến quấy rầy, chủ khách nói chuyện trong phòng khách với ý định tìm ra một giải pháp tốt nhất cho cả hai người.

- Đây là một trong số các loại rượu vang ngon nhất của Tây Ban Nha, Fidel Pino Santos bảo đảm trong khi hai người uống mấy cốc Ba con sông, và vị khách cảm thấy hai bên thái dương và sau gáy tất cả sức nặng của sự bảo đảm chỉ có trả hết nợ mới có thể tránh khỏi.

Ángel còn giữ lĩnh canh một số lượng đáng kể đất đai tại Pinares de Mayarí và đã đem hết sức cố gắng để khai thác gỗ, một điều đáng khuyên không nên làm những nghề như môi giới trong thương mại như vậy trong tình hình lúc bấy giờ: giá đường tụt xuống mức sàn trên thị trường thế giới, công nghiệp đang ở trong tình trạng suy thoái giữa biến động chính trị và những cuộc đàn áp đẫm máu làm rung chuyển cả nước. Ángel tiên cảm thấy một sự bùng nổ, nhận thấy một cách rõ ràng như là sự thất bại trước đây của cuộc chiến tranh Tây Ban Nha tại Cuba.

Mặc dù đã kiên nhẫn, nhanh nhạy, sáng tạo trong sản xuất và những việc làm để cứu vãn cái tài sản quý giá nhất, Ángel cũng không có cách nào khác là đặt cái điền trang có được nhờ sáp nhập năm trang trại có tên Manacas, Las Palmas, María, Espanola và Rizo vào tay của ông chủ nợ, cho đến khi tìm được những điều làm thỏa mãn cho cái khoản lãi đã quá hẹn trả.

Trời sập tối khi hai ông chia tay và hẹn gặp nhau sáng hôm sau tại văn phòng luật sư. Đêm hôm đó, ông Ángel thấy tất cả sự cô đơn, ngưng đọng trong căn phòng khách sạn, ở những tủ kính u tối, những ngăn kéo trống rỗng, những bức tường tối om và sự buồn bã của mặt gương phản chiếu nỗi băn khoăn trong tâm khảm, mặc dù đã có sự bảo đảm sẽ để cho tất cả mọi việc vẫn tiếp tục như trước, cần yên tâm kiên nhẫn.

Trên mặt bàn viết gỗ gụ chất đầy giấy tờ, quả chuông để dừng những cuộc thảo luận, những chiếc cặp da, lọ mực. Ông công chứng viên, cúi người đọc to văn tự hết hạn trả nợ. Ngày 20/7/1933 đã trôi qua.

Điền trang đem cầm gồm hơn 65 caballeria theo như bản đồ dựng nên bởi nhân viên địa chính Felipe Xiqués và đặt tất cả trong một hợp đồng ép mía giữa Công ty Vô danh Warner Sugar Corporation và người khách nợ, trong đó có cả quyền được băng qua đường xe lửa.

Bởi Ángel không trả được số tiền lãi cho chủ nợ nên phải đến nhà chức trách của toà án xin làm thủ tục tố tụng đơn giản về cầm cố. Cuộc xét xử đang ở trong thời kỳ bán đấu giá lần hai đã định vào ngày 31/7 tới. Phiên tòa sẽ mở vào lúc 9 giờ sáng tại Phòng Xử án Đệ nhất cấp Mayarí, thị trấn ở phía bắc của tỉnh, đã được xây dựng lại một vài lần sau những trận lụt, tại đó, đặt cơ quan đầu não của tỉnh lị mà điền trang Birán phụ thuộc, ở đấy, những người dân nhìn nhận xem có cần phải thực hiện những điều quy định chính thức hay chạy đến nhà thờ. Người mắc nợ chịu nhận trả nợ bằng điền trang của mình bởi không đáp ứng được yêu cầu của chủ nợ là trả tất cả số tiền nợ. Đoạn cuối của văn bản, chủ nợ và con nợ cùng ký tên và công chứng viên ký và đóng dấu, để chứng thực cho bản thỏa thuận.

Mặc dầu có văn bản như vậy, ít nhất chỉ là bề ngoài, không có gì thay đổi trong điền trang và trong nhà máy, và có lẽ thời gian để chuộc lại các tài sản là một phần của sự thỏa thuận ngầm giữa những nhà hiệp sĩ mà tình bè bạn lâu đời có lẽ đã gắn kết Ángel và Fidel Pino Santos, nhưng vận rủi ro không ngớt gây lo lắng, cắn rứt và cảnh báo cho con người chiến đấu mà từ khi đến Cuba đã luôn mơ ước một sự ổn định về kinh tế và một tương lai hứa hẹn cho mọi người trong gia đình.     

Chiếc bàn có phủ khăn trắng nõn có viền xung quanh ở chính giữa đặt một cái đĩa bằng thủy tinh đựng đầy hoa quả, của phòng ăn trong ngôi nhà lớn là nơi tụ họp của những người chủ điền trang và mấy vị khách mời. Ở đấy, mọi người đã bàn bạc về những vấn đề quan trọng của gia đình và sản nghiệp; tương lai của những đứa con chẳng hạn, vừa được quyết định sau một cuộc nói chuyện với cô giáo, trong phạm vi của bữa cơm trưa trong gia đình ngày hôm ấy. Eufrasia đã nói rất nhiều cái tốt, khả năng học hành dạy dỗ tại thành phố, và cô đã thuyết phục được gia đình đồng ý gửi ngay những đứa trẻ tới đó, nơi mà cha cô, ông Néstor Feliú và em gái cô, Belén, giáo viên dạy piano đang sống. Cô giáo Eufrasia bảo đảm ở thành phố sẽ tốt hơn nhiều cho lũ trẻ, chứ không như đời sống tại trang trại xa xôi hẻo lánh và quê mùa. Angelita đã đến độ tuổi mà người ta khuyên nên học cao hơn nữa, chứ ở đây thì không có thể, vì chỉ có đến lớp cao nhất là lớp 4. Cho nên, ở Birán bây giờ không thể đem lại cho cô triển vọng gì. Nhất là đối với Fidel, một cậu bé lanh lợi và thông minh, đây là một dịp tốt nhất cho cậu. Ở thành phố, cậu bé có thể vào học tại Trường Trung học Spencer hay Trường La Salle và làm quen với cuộc sống thành thị - cô giáo ở Birán giải thích.

Trước thiện ý thật nhiệt tình đó, Ángel và Lina đều đồng tình, họ tỏ rõ ý muốn tuyệt diệu để các con họ sẽ đi học cao hơn nữa, để cuộc đời được tiến bộ sau này. Vì vậy, hai người chấp nhận những hy sinh lớn, không nghi ngờ gì những người mà họ tin vào sự trông nom và dạy dỗ lũ con mình, đã không có đủ năng khiếu cũng như tình yêu để làm nhẹ bớt nỗi đau buồn nhớ mái ấm gia đình.

Tháng 12, sau lễ Noel, Angelita và Fidel bắt đầu cuộc hành trình. Khi tới, ánh sáng điện, những ô cửa vòm gỗ và cái ồn ào của nhà ga đường sắt của Santiago de Cuba gợi lên trong cậu bé một sự lóa mắt có sức cuốn hút thầm lặng. Đôi mắt cậu bé lạc vào trong những bức tường cao vút và ánh sáng của những chiếc bóng đèn điện và nhớ đến vùng quê Birán xa xôi và những bạn bè ở đó. Cậu bé cảm thấy nhớ đến cây cối, ánh trăng, sự tự do chơi đùa, chạy nhảy, nhớ đến đoàn người đi săn, nông dân và những người Haiti, đến cái mát lạnh của những cơn mưa rào, đến mặt trời gay gắt của những buổi trưa và đến thảm thực vật rậm rạp trước mắt và ở trong tầm tay.

Cậu không biết đặt tên cho những tình cảm đó, cũng chưa thể giải thích được điều vừa xảy ra trong cậu mà không có lời lẽ nào nói lên được sự lộn xộn đó. Đêm đầu tiên ở Santiago trong nhà của cô em họ cô giáo Feliú, người mà tất cả bọn học trò gọi tên là "cô kỳ cục" một cách lạ lùng bởi cái thân hình mập mạp, cao to. Đối với Fidel, cậu cho đó là một dáng vẻ đặc biệt không bình thường. Cậu đã đái dầm, có lẽ vì bị căng thẳng thần kinh hoặc bị kích thích bởi cuộc hành trình quá dài, hoặc cảm thấy một nỗi buồn nặng nề vì đi quá xa nhà và sống giữa những người xa lạ. Đêm hôm đó, Angelita, chị cậu bé đã ở bên em, đảm nhận cùng Belén việc thay khăn trải giường và mặc quần áo cho em, rồi hôn em làm cho em bình tĩnh lại, nhưng cậu bé đã không thể nào ngủ lại dù đôi mắt đã cố nhắm nghiền, giả vờ ngủ và cảm thấy mình khốn khổ và cô đơn.

Thời gian qua đi buồn tẻ, hiu quạnh và một nỗi sầu não làm cho cậu bé khiếp sợ, mệt mỏi, thiu thiu ngủ, để rồi sau đó, lại thức dậy ngay và không làm sao ngủ lại được. Một vài lần, Esmérida vỗ về, an ủi được cậu bé. Esmérida là một cô nông dân đi theo giúp đỡ cho hai chị em Fidel những việc trong nhà, và cô cũng chẳng hiểu những nguyên nhân nào đã làm cho cậu bé bình tĩnh lại. Đã có lúc thiu thiu ngủ để rồi sau đó lại thức dậy ngay và không làm sao ngủ lại được. Khi đi ngủ, cậu bé luôn hỏi về cha mẹ, và bao giờ cũng chỉ thấy câu trả lời giống nhau: "Cha mẹ ở xa". Cậu được ở gần chị cả, nhưng cô cũng chưa biết những thăng trầm, luyến tiếc và không hiểu vì đâu có sự thay đổi bất thình lình làm cho cuộc sống của hai chị em nặng trĩu buồn phiền.

Thoạt đầu, tất cả mọi người đều đến ở trong phố Santa Rita. Santa Rita gần đường đê biển Malecón, tại đó, Osoria và Cô kỳ cục sinh sống. Mấy tuần sau, cả gia đình Feliú cùng mấy đứa trẻ chuyển đến ở phần trên dốc của vẫn khu phố ấy, ngay trên đồi Quan giám quận, đối diện với Học viện Nghiên cứu trung học. Căn nhà hẹp, tối và ẩm, tường ván gỗ, mái lợp ngói nhiều viên vỡ và đã sạm màu, bất ngờ được đón tiếp một cách rụt rè trong khu phố cổ nghèo nàn.

Cuối năm bao giờ cũng có thời gian để vui chơi, nhưng không phải cái cớ để hai chị em, nhất là cho Fidel, cậu em kém chị 3 tuổi, không tìm được lý do gì để tổ chức lễ vui chơi, ở xa Birán và sống giữa người xa lạ, hai chị em nhớ mái ấm gia đình ở ngôi nhà lớn và sự âu yếm mà cha mẹ dành cho hai chị em: Fidel khao khát nghe giọng nói của Lina và cảm nhận bàn tay của Ángel vuốt ve đầu tóc mình trong những lời ru dịu dàng, kín đáo.

(Còn nữa)

Bình luận bài viết

Bình luận

BÁO HÀ NAM ĐIỆN TỬ

Giấy phép xuất bản số 68/GP-BTTTT do Bộ Thông tin - Truyền thông cấp ngày 16/2/2017

Địa chỉ: Đình Tràng, phường Lam Hạ, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam

Tổng Biên tập: Nguyễn Duy Tuấn

Điện thoại: (0226) 3852.773 - 3853.342 | Fax: (0226)3853.342

Email: baohanam.dientu@gmail.com

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Nha khoa Daisy