Nhà báo Nguyễn Thành Lê - Cuộc đời và sự nghiệp

Nhà báo Nguyễn Thành Lê - Cuộc đời và sự nghiệp

Ông sinh ngày 17/6/1920 tại xã Đại Cầu (nhất xã, nhất thôn), tổng Lam Cầu, huyện Duy Tiên (nay thuộc phường Tân Hiệp, thành phố Phủ Lý), trong một gia đình có truyền thống yêu nước, cùng họ, cùng quê với cố Phó Thủ tướng Nguyễn Lam (Lê Hữu Vị). Họ tên thật của ông là Lê Thanh Thủy. Cha ông là một nhân viên hỏa xa, đặt tên con: “Thanh Thủy” với tâm nguyện con mình sẽ là dòng nước trong xanh chảy giữa cuộc đời. Mẹ ông, một người thợ đã tham gia xây dựng cầu Long Biên (Hà Nội). Bà đã truyền cho ông tinh thần không chùn bước trước khó khăn, gian khổ.

 

Nhà báo Nguyễn Thành Lê trả lời họp báo tại Hội nghị Pari năm 1968. Ảnh tư liệu

Từ nhỏ, Lê Thanh Thủy đã có chí ham học và học giỏi, sớm tốt nghiệp bậc cao đẳng tiểu học, rồi dày công tự học, để sau này có kiến thức sâu rộng về nhiều mặt.

Ông tham gia cách mạng năm 1936 khi là đoàn viên đoàn Thanh niên dân chủ Đông Dương do Đảng lãnh đạo. Tháng 10/1945, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.

Nhà báo tiêu biểu xuất sắc

Nguyễn Thành Lê đến với báo chí từ đầu những năm 1940 khi ông làm công việc dịch tin tại hãng tin ARIP (tiền thân của hãng AFP Pháp). Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông trở thành nhà báo cách mạng. Ông là chủ nhiệm, kiêm chủ bút Báo Độc Lập (cơ quan của Đảng Dân chủ Việt Nam) từ 1945 – 1949. Năm 1950, tại chiến khu Việt Bắc, ông là một trong những người được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp giao nhiệm vụ thành lập Hội Nhà báo Việt Nam, giữ chức vụ Tổng Thư ký đầu tiên của hội. Trong thời gian này, ông còn là chủ bút Báo Cứu quốc (cơ quan của Tổng bộ Việt Minh).

Được Trung ương Đảng điều động về công tác tại Báo Nhân Dân (cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng), năm 1953, ông được bổ nhiệm làm Phó Tổng Biên tập. Sau này ông còn làm Tổng Biên tập Báo Giải phóng (cơ quan của Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam) vào năm 1964.

Tại Báo Nhân Dân, Nguyễn Thành Lê được ghi nhận là người đặt nền móng cho phong cách chính luận báo chí Việt Nam hiện đại, súc tích, trí tuệ, giàu tính chiến đấu nhưng vẫn giữ được tính nhân văn và bản sắc dân tộc. Ông đã có công xây dựng ngôn ngữ báo chí chính trị. Câu văn của ông rõ ràng, khúc chiết, truyền tải tư tưởng Mác-Lênin, Hồ Chí Minh, dễ tiếp thu, không khô cứng, giáo điều. Gắn lý luận với thực tiễn, ông thường xuyên chỉ đạo viết các bài phản ánh hơi thở chiến trường, tâm tư của cán bộ, chiến sỹ, nhân dân, từ đó làm cho đường lối, nghị quyết của Đảng đi vào đời sống.

Những bài xã luận ông viết hoặc biên tập luôn có phong cách đặc trưng, giàu suy luận, súc tích về ngôn từ, sắc bén trong lập luận, kết hợp hài hòa giữa lý trí và cảm xúc cách mạng. Ông cũng đặc biệt chú trọng rèn luyện đội ngũ trẻ, hình thành lớp nhà báo có bản lĩnh trung thành, vững vàng về chính trị.

Báo Nhân Dân, với sự tham gia chỉ đạo của Nguyễn Thành Lê, các bài xã luận, chính luận trở thành tuyến bài quan trọng nhất, mang tính định hướng dư luận và dẫn dắt tư tưởng. Các bài phản bác luận điệu địch và tuyên truyền chiến thắng được ông tổ chức bài bản, thể hiện lập trường vững vàng, lập luận phản bác sắc bén, tạo nên uy tín và sức mạnh đấu tranh của Báo Nhân Dân.

Với sự nhạy bén về thời cuộc, trong bài “Mấy vấn đề về giải phóng dân tộc” (Tạp chí Cộng sản, số 12/1981), Nguyễn Thành Lê đã dự báo về một cuộc đổi mới toàn diện hội nhập quốc tế mà cốt lõi là phá bỏ trật tự kinh tế cũ, thiết lập quan hệ kinh tế mới ở nước ta, một dự báo đi trước thời đại 5 năm.

Nguyễn Thành Lê là người đầu tiên đưa ra khái niệm “Phong cách báo chí cách mạng”, trong đó ngôn ngữ báo chí phải “Lý luận hóa được thực tiễn” và “Chính trị hóa được đời sống”. Theo ông, ngôn ngữ báo chí là sự kết hợp giữa lý trí và cảm xúc. Nguyễn Thành Lê không phải nhà báo chỉ đơn thuần lý luận. Trong cách viết và làm báo, ông, thể hiện một trí tuệ nhạy bén, biện chứng, gắn với cảm xúc cách mạng chân thành.

Nguyễn Thành Lê, không chỉ để lại hàng trăm bài viết, xã luận, chính luận có giá trị lý luận, chính trị, lịch sử mà còn là tấm gương đạo đức nghề nghiệp. Khi chuyển sang công tác khác, ông vẫn giữ phong cách giản dị, kiên định và sâu sắc của một nhà báo.

Sự nghiệp báo chí của Nguyễn Thành Lê không chỉ ở sự lan tỏa các bài báo của ông. Trong giáo trình giảng dạy của Học viện Báo chí và Tuyên truyền, nhiều bài xã luận của Nguyễn Thành Lê vẫn được chọn làm mẫu cho cách viết báo, lý luận kết hợp với cảm hứng thời đại. Nhiều lớp phóng viên ở Báo Nhân Dân coi ông là “Người thầy mẫu mực”. Ông dành được sự đánh giá rất cao trong và ngoài làng báo, trong đó có những Tổng Biên tập Báo Nhân Dân. Nhà báo Hà Đăng: “Anh Nguyễn Thành Lê là một trí thức lớn, người đặt những viên gạch đầu tiên để Báo Nhân Dân trở thành ngọn cờ đầu về báo chí chính luận của Việt Nam”. Nhà báo Hồng Vinh: “Nhà báo Nguyễn Thành Lê là cây đại thụ của làng báo cách mạng. Cách viết, cách nói, cách nghĩ của ông đều thể hiện tinh thần cách mạng, tư duy chiến lược và phẩm chất đạo đức mẫu mực. Nguyễn Thành Lê là người đặt nền móng cho hệ thống ngôn ngữ chính luận báo chí Việt Nam”.

Đóng góp trong lĩnh vực ngoại giao

Với khả năng ngoại ngữ, thành thạo tiếng Pháp và tiếng Anh, Nguyễn Thành Lê đã đảm nhiệm vai trò quan trọng trong nhiều sự kiện ngoại giao lớn của nước ta.

Ông là Trưởng Ban báo chí của Đoàn đại biểu Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Giơnevơ (Thụy Sỹ) năm 1954 về Đông Dương. Ông là người phát ngôn của Đoàn Việt Nam tại Hội nghị Giơnevơ năm 1961 - 1962 về Lào. Ông là đại biểu Việt Nam tham dự Hội nghị Á - Phi tại Banđung (Indonesia) năm 1955 và Hội nghị ba châu lục Á - Phi - Mỹ La tinh tại Lahabana (Cu Ba), góp phần đặt nền móng cho phong trào không liên kết.

Đặc biệt, Nguyễn Thành Lê là Người phát ngôn chính thức của Đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Hội nghị Paris (Pháp) về Việt Nam (1968 – 1973) đồng hành cùng các ông Lê Đức Thọ, Xuân Thủy trong những phiên đàm phán. Trong 5 năm hội nghị, có hơn 200 phiên họp chính thức, hàng chục cuộc họp riêng. Hoạt động báo chí diễn ra sôi nổi, hiệu quả với 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc trả lời phỏng vấn, hàng trăm cuộc tiếp xúc với các nhân vật có ảnh hưởng xã hội và phong trào quốc tế. Từ đó dấy lên phong trào ủng hộ Việt Nam mạnh mẽ khắp châu Âu, nước Mỹ và thế giới. Trong thành công ấy, có đóng góp không nhỏ của Nguyễn Thành Lê.

Những phát biểu của ông tại diễn đàn quốc tế, được giới truyền thông phương Tây đánh giá là “đanh thép, mạch lạc, có sức nặng về lý lẽ lẫn đạo lý”. Ông là “người phát ngôn của lịch sử”, không chỉ chuyển tải quan điểm của Chính phủ Việt Nam, mà còn thể hiện bản lĩnh, khí phách của một dân tộc đấu tranh vì độc lập, hòa bình và công lý.

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Dy Niên dành cho ông sự đánh giá trân trọng: “Ở Nguyễn Thành Lê hội tụ đầy đủ ba phẩm chất hiếm có: Bản lĩnh chính trị, tư duy sắc bén và khả năng truyền đạt ngoại ngữ, lý luận tuyệt vời”.

Những phần thưởng cao quý và di sản

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, ngoài đảm nhiệm các chức vụ trong lĩnh vực báo chí, Nguyễn Thành Lê còn giữ nhiều cương vị. Ông là Đại biểu quốc hội khóa I (1946 – 1960). Năm 1976, ông được bầu làm Ủy viên Trung ương Đảng khóa IV (1976 – 1981), là Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương; đại biểu Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội khóa VII (1981 – 1987). Sau đó, ông làm Phó Viện trưởng Viện Mác - Lênin (nay thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) cho đến khi nghỉ hưu.

Ông đã được đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý như Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng Nhất, Huân chương chống Mỹ cứu nước hạng Nhất và nhiều huy chương vì sự nghiệp báo chí, ngoại giao, văn hóa tư tưởng.

Nguyễn Thành Lê nổi danh là nhà báo tiêu biểu xuất sắc, được coi là một trong những cây đại thụ của báo chí cách mạng Việt Nam, cây “vĩ cầm số hai” bên cạnh Nhà báo Hoàng Tùng “cây vĩ cầm số một” ở Báo Nhân Dân. Di sản báo chí của ông đồ sộ, rất có giá trị về lý luận, chính trị, lịch sử. Di sản của ông còn là những công trình, tác phẩm giàu chất trí tuệ uyên bác. Ông là tác giả của các cuốn sách đã được xuất bản và phát hành rộng khắp, tiêu biểu là: “Ánh sáng tháng 10”, “Những chặng đường Báo Cứu quốc”, “Cuộc đàm phán Paris về Việt Nam (1968 – 1973)”, “Điện Biên Phủ - Giơnevơ”, “Những bài học đối ngoại trong kháng chiến”. Đồng thời, ông là đồng tác giả hoặc chủ biên các cuốn sách lớn: “Các Mác và thời đại chúng ta”, “Chủ tịch Hồ Chí Minh - người chiến sĩ kiên cường của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế”. Đặc biệt, ông là chủ nhiệm đề tài cấp nhà nước “Quy luật liên minh ba nước Đông Dương Việt Nam – Lào – Campuchia”, nghiệm thu đạt loại xuất sắc.

Ngày 30 tháng 9 năm 2006, nhà báo Nguyễn Thành Lê từ trần tại Hà Nội. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là tấm gương sáng về lòng yêu nước, tinh thần cách mạng và sự cống hiến không ngừng nghỉ cho sự nghiệp báo chí và ngoại giao Việt Nam.

Mai Khánh

Bình luận bài viết

Bình luận

BÁO HÀ NAM ĐIỆN TỬ

Giấy phép xuất bản số 68/GP-BTTTT do Bộ Thông tin - Truyền thông cấp ngày 16/2/2017

Địa chỉ: Đình Tràng, phường Lam Hạ, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam

Điện thoại: (0226) 3852.773 - 3853.342 | Fax: (0226)3853.342

Email: baohanam.dientu@gmail.com

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản.