Sống mãi như những cây trắc bách hương - Trường Belén

Cơn gió nhẹ đẩy bật cánh cửa và từ lối đi sau nhà bay đến những mùi hương từ cái chạn thức ăn và tủ thuốc với những ngăn đầy thuốc. Người ta nhớ đến tiếng ngáy đều của José Soto, đã ba lần lấy vợ trong cuộc đời, và lần thứ ba, lấy Herminia Pereira, một cô gái ở Guaro.

 

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến thăm ông Fidel Castro - vị lãnh tụ của Cách mạng và nhân dân Cuba, năm 2012.  Ảnh: TTXVN

Fidel nghĩ không biết tình yêu của bà cô María Julia và Martín Conde sẽ đi đến đâu. Hai người đã có liên lạc với nhau hơn mười năm. Họ thường "hoan hỉ" vào buổi chiều những ngày Chủ nhật, hai người ngồi trên hai ghế đẩu bọc da ráp, vuốt ve ngón tay và chăm chú nhìn nhau, để chờ vận may của vị hôn phu, là người bao giờ cũng đúng giờ, tháo yên ngựa sau khi đã đi loanh quanh trên một đoạn đường, với ý nghĩ đặt vào những món tiền tiết kiệm rất cần thiết và cái ước muốn cưới phắt đi một chuyến cho xong.

Đối với cậu cháu Fidel thì tình yêu của María Julia và Martín Conde là một mối tình lớn, chỉ có thể sánh với mối tình mà cậu biết giữa mẹ và cha, một cuộc hôn nhân tuyệt vời và hình như bất tận đã mang cho thế giới bảy người con.
Mấy ngày sau những suy nghĩ của cậu, một sự ồn ào náo nhiệt làm rộn cả ngôi nhà: người ta đồn sắp có đám cưới của cô María và đang chuẩn bị áo cưới và mọi thứ cho buổi lễ, trong khi tất cả mọi người cứ tưởng rằng bà cô sẽ ở vậy, để mặc quần áo thầy tu. María Julia là một phụ nữ đặc biệt cao lớn, tóc chải ngược ra đằng sau, đôi mắt đen trũng sâu. Với hy vọng giữ được sự mịn sáng của làn da, María có thói quen tắm nước lá thơm và chú trọng chăm sóc làn da thật kỹ, sử dụng kem phấn hóa trang rất kỹ lưỡng, để sau đó, ngồi trước gió của cây quạt ở bên cửa, từ đấy, ngước nhìn chân trời mơ mộng và cảm thấy được tất cả mọi người cảm phục mình như một bà thánh. Tuy nhiên, bà cô vẫn chưa chồng, dù đã hứa hôn một cách đơn điệu như đã kể trên, mà tất cả mọi người đều cho là không đi đến đích.
Tin tức về đám cưới đã lan đến tất cả điền trang. Pedro Pascual, nhân viên bán hàng ở cửa hiệu của điền trang, Santa Martinez và Marina giặt vải, đệm và những chiếc khăn bàn có thêu ren; anh thợ mổ gia súc Previsto Pena; Hipólito Lopez, tức Polo, người vắt sữa thứ nhất và lúc đó, chịu trách nhiệm cung cấp sữa cho xưởng sản xuất phomát; mấy anh em Marcos, Tino và Carlos Cortina; anh chàng trồng mía Ponciano Rodriguez; Cándido Martinez, anh thợ mộc; Epifanio Gomez, người quản lý của Công ty Liên hợp Trái cây; Siso Segura và Luis Alvarez Gallo, dược sĩ và nha sĩ; những người Haiti ở lán trại; một số đông những người Tây Ban Nha vẫn đến đánh bài đôminô với Ángel vào những buổi đêm; và cuối cùng, Benito Rizo, người mà Lina mang về nhà từ lúc nhỏ, khi bà nhìn thấy anh mặt mũi gầy khô với thân hình còi cọc của một đứa trẻ không lớn lên được và tiếng cười đã mất, trông già khọm giữa lúc tuổi còn xanh đều đến chúc mừng đám cưới.
- Ông già này, cẩn thận trông Raúlito đấy! - Lina dặn trước khi ông đi đến đầm Jobo, cùng với Benito cưỡi con ngựa Revolisco, mà mọi người gọi nó là Revolico.
Benito đã sống ở đó từ lúc còn nhỏ. Đến năm 24 tuổi, anh ta yêu em gái của Ubaldo Martínez, tên là Regina, mà anh ta để mắt tới như bị ám ảnh không thể cưỡng lại nổi, và anh đã quyết định xây dựng mái ấm của chính mình. Raúl nhớ đến anh một cách rất yêu thương, như một chàng trai lớn hơn và đã che chở cho mình.
Clara Soto bằng lòng hơn bất cứ ai khác về cuộc hôn phối của bà cô. Kể từ đó, cô đã được tự do hơn, không còn phải nghe những bài thuyết giáo triền miên của María Luisa, và tính khí thất thường, cũng như những cuộc trò chuyện bắt buộc sau bữa ăn tối.
Cô gái tròn 16 tuổi và từ ba năm trước đã hứa hôn với Santiago Estevez là một thanh niên ở Sao Corona, người đã bán cho Castro những cành ghép cho vườn cam và làm việc trong một vườn cây xa hơn vườn cây của Hevia, ở ngay khúc quanh gần trang trại của người em họ Ángel Castro là ông Manuel Argiz, một nông dân trồng rau, người vẫn đang chịu nỗi cô đơn quen thuộc, sống như một nhà tu khổ hạnh. Chỉ thỉnh thoảng người em họ này mới tìm đến ngôi nhà lớn, để vui vẻ một chút, uống vài ly rượu vang và quên đi trong giây lát nỗi nhớ cố hương day dứt bằng cuộc trò chuyện trong những ván đôminô.
Mới đầu, mấy người em họ của Ángel là Manuel và Ramón ở gần điền trang, cho đến ngày Ramón đi tìm vận may ở Santiago de Cuba và quyết định mở một cửa hàng buôn bán. Manuel cảm thấy buồn và lẻ loi hơn và bao giờ cũng chỉ nghĩ đến cái đề tài nổi cộm trong những cuộc họp ở câu lạc bộ, bao giờ cũng thấy nhắc lại mong ước lớn nhất của mình bằng vẻ hoài nghi: "Trở về mảnh đất quê hương, đó là điều duy nhất mà tôi muốn hoàn thành trước khi nhắm mắt". Có khá đầy đủ tiền để mua vé trở về, mấy năm sau, khi cảm thấy đã già yếu, ông bắt đầu chuyến quay về vĩnh viễn. Sau đó, Ramón Argiz cũng quay về theo ông anh và cả hai đều chết ở quê hương, họ vẫn không quên cái nóng hừng hực của Hòn Đảo với những con người có nhiều đức tính tốt đẹp.
Santiago Estevez muốn ở gần Clara, cô gái vui vẻ và có trách nhiệm, luôn luôn yêu thương và chăm sóc những cô bé ở tại ngôi nhà lớn.

 

Đồng chí Fidel Castro thăm Ủy ban Nhân dân Cách mạng tỉnh Quảng Trị và cán bộ, chiến sĩ Quân Giải phóng Trị Thiên-Huế năm 1973. Ảnh: TTXVN

Ngày cưới của María Julia và Martín Conda, Fidel không lúc nào rời mắt khỏi Georgina Estevez, em gái của Santiago, có làn da toả mùi hương thơm của cây hồng mà cha mẹ cô chăm chút rất cẩn thận của người nông dân chung thuỷ với truyền thống gia đình, trong cái nghệ thuật ghép cành và thu hái cánh hoa.
Quyết định vào học những lớp cuối của ban tú tài trong Trường Belén của thầy tu dòng Tên tại La Habana, Fidel nói chuyện với cha mẹ, và hai ông bà đồng ý sau khi nghe con nói về những lợi ích khi học ở thủ đô.
Sau đó, Fidel lại đạt được một việc là làm cho ông bà đồng ý cho cả Angelita về La Habana, theo học tại Trường nữ học thuộc dòng Nữ thánh Ursuline.
Bây giờ, cậu đã sẵn sàng đi mua sắm ở Santiago de Cuba những thứ cần thiết để đến La Habana: vali, cặp sách, giày, khăn mặt và chăn cùng khăn trải giường. Cái lớn nhất trong công việc tìm tòi mua sắm của cậu là bộ quần áo màu đỏ sẫm, dài và có hai hàng khuy, mua theo lời khuyên của con ông Mazorra, nhà buôn người Tây Ban Nha, bạn của ông Ángel, nơi cậu đã ở trọ - không bao giờ cậu quên được - ở nhà ấy, cậu đã quen với bà giáo Danger, đã yêu cô Riset và nghe đài tường thuật trận đánh của hai võ sĩ Joe Louis và Max Shmelling.
Trong thời gian ngắn ngủi ở thành phố Santiago de Cuba, bác sĩ Francisco Lopez Rosa, ở bệnh viện Los Angeles đã khám thật kỹ lưỡng cơn đau mà Fidel chợt thấy thoáng qua. Bác sĩ Lopez Rosa đã viết trong bệnh lịch: "Ngày 11 tháng Tám 1942, đã đỡ nhiều. Không còn đau. Không cần phải uống thuốc giảm đau. Đi về nông thôn. Quay trở lại khám nếu thấy đau hoặc sốt". Fidel đã đến bệnh viện 72 tiếng đồng hồ trước đó, bởi thấy đau ở một bên tai trái từ mấy ngày trước. Bác sĩ ghi: "hình như cơn đau đã diễn ra, sau khi tắm ở sông (…)”. Nhưng Fidel quyết định cơn đau này không thể làm chậm trễ những kế hoạch đã định của mình.
Cậu muốn được kỷ niệm sinh nhật lần thứ 16 của mình cùng với gia đình, vì thế, ngay buổi chiều hôm ấy, cậu đi tàu đến Miranda rồi từ đó đi xe goòng đến trạm đầu ghi, nơi cân và chuyển mía từ các đồn điền về xưởng máy đường ở Birán. Những ngày nghỉ cuối cùng đi qua nhanh đến chóng mặt đối với mọi người, nhưng riêng đối với Fidel, tha thiết, phấn khởi mong chờ, lại thấy thời giờ đi qua như quá chậm. Cậu mong muốn biết càng nhanh càng tốt thủ đô và ngôi trường mới.
Ngày ra đi, bà mẹ, anh Ramón và Carlos Cortina cùng đi với cậu đến tận đường sắt ở Alto Cedro bằng một quãng đường đi ngựa, bởi vì người tài xế Arsenio Navarro bảo đảm là xe này không thể không gặp nguy hiểm, mắc kẹt trên những đoạn đường lầy lội của trang trại đã biến thành một con sông đầy bùn, vì những cơn dông bão mùa Hè.
Những trận mưa đã nhuộm màu xanh đậm cho cây cối và xoá hết dấu bụi như địa ngục của mùa khô. Fidel hít đầy phổi cái không khí của đồng quê và ngắm nhìn phong cảnh thân quen để mang theo mình trong cuộc thám hiểm một thế giới mới. Trong cửa hàng ở Alto Cedro, Fidel mua thêm mấy thứ nữa cho hành trang của mình. Vào lúc 1 giờ chiều, lên tàu dưới cái nắng chói chang mà Lina đã từng kể cho các con nghe về cuộc ra đi 30 năm trước, khi bà cùng cả gia đình mình để lại đằng sau tất cả những kỷ niệm về mảnh đất quê hương Pinar del Río. Trong toa tàu, Fidel thức suốt: từ Guane tới tận Camagiiey, trong lúc mấy anh em của cậu để lỡ không được ngắm cảnh vật tuyệt vời của những phong cảnh mới lạ chạy dài hai bên đường sắt.
Chặng đường mà Fidel phải đi gồm tới 800km giữa những điền trang, các thị trấn ở hai bên, và những ga đỗ xám ngoét, những sân "ke" đỗ trong chớp nhoáng và những chiếc ghế đệm rung, lúc lắc khi tiếng còi ở đầu tàu báo hiệu gần đến một trạm dừng, và một số những người bán hàng rong xúm xít rao bán bánh sữa, bánh bao, và bánh dừa nạo trộn mật ong. Lần đầu tiên trong đời, cậu ăn bữa trưa bằng vé mua thức ăn trong một hoàn cảnh trang trọng và xóc nảy người trên một chiếc xe pullman, sự kiện không thể quên được ấy đã biến thành một nếp quá quen thuộc vào giờ đi ăn cơm.
Rạng sáng, khi những toa tàu đang lăn bánh trên quãng đất cao của Tallapiedra, Fidel choàng tỉnh dậy, chỉnh đốn quần áo và sẵn sàng mọi mặt đối với những điều lạ lùng. Trước nhà ga lớn, hành khách đi tàu vội vã, ồn ào; một nhân viên nhà ga đang thản nhiên áp tai vào loa của một chiếc máy thu thanh cũ tập trung nghe Lily Marlem hát, chẳng cần phải để tâm trả lời những câu hỏi của những hành khách tỉnh lẻ, vì anh ta nghĩ rằng tất cả mọi sự vật đều có niềm vui khác thường hoặc nỗi buồn sâu thẳm của nó. Nhà ga Trung tâm của đường sắt nổi bật lên bởi nhiều cửa kính, nhiều vòm cuốn với chiếc đồng hồ lớn trên chòi cao và tiếng ồn ào của hành khách chen lấn ở cửa ra vào một cách vội vã.
Trong gian phòng rộng, ông Fidel Pino Santos, người cha đỡ đầu không bao giờ được làm việc đó, đang đứng đón Fidel. Ông mặc bộ quần áo len mỏng màu trắng, có dáng điệu của một đại gia công nghiệp có uy tín và hào phóng. Người khuân vác mang tất cả hành lý bỏ vào hòm chất trong xe ô tô. Chiếc xe chạy theo đường Đê Biển của La Habana đi qua đường phố Montserrate giữa những ngôi nhà bốn hoặc năm tầng, với một tốc độ mà từ trước Fidel chưa bao giờ nghĩ tới.
Trong đặc khu Miramar về mé tây của thành phố, đối diện với Câu lạc bộ Cubaneleco quý phái, Fidel Pino Santos có ngôi nhà hai tầng với những chiếc cột rất cao. Ông vẫn tiếp tục là một người cho vay tàn nhẫn, một người tình bốc lửa của bà Tiến sĩ dược khoa Ana Rosa Sanchez, một nhà đầu cơ chính trị có hàng nghìn cựa sắt và là người bạn già của ông Ángel Castro Argiz, người xứ Galacia, Tây Ban Nha. Cậu học sinh mới của Trường Trung học Belén sống ở đấy một thời gian ngắn, cậu đã ngủ một giấc lâu sau chuyến đi dài và thấm mệt do rất nhiều chỗ đỗ dọc đường của con tàu. Sau đó, người ta dẫn cậu đi lần nữa giữa những đại lộ rộng thênh thang với một tốc độ "vũ trụ" đến tận Trường Trung học Belén, nơi có những bờ tường tân cổ điển gây cảm xúc mạnh, có những bức tường cao, tường của tiền sảnh ốp đá hoa cương, sàn nhà lát những hình trang trí bằng các mảnh ghép.
Tại cổng vào trường mới, Fidel cảm thấy rất sung sướng. Ngôi trường ấy là trường tốt nhất của quốc gia, bởi những phòng ốc tráng lệ và uy tín của hội đồng giáo viên, cậu cảm thấy mình đang ở trong trạng thái sảng khoái của một người vừa đạt được một ước mơ.
Đêm đầu tiên ở La Habana, cậu nghỉ ngơi ở đấy, và vì còn hai ngày nữa mới bắt đầu lớp học, nên ngay sáng sớm hôm sau, cậu hỏi thăm tàu điện nào đi vào giữa thành phố và đi thăm thú, chỉ biết rằng lần này không phải là để khảo sát ngọn đồi La Yaya hoặc La Mensura ở vùng lân cận của Birán, mà là đi thăm những đường phố còn chưa biết và đông chật người ở khu Habana cũ.
Xe điện chạy mất 40-50 phút mới tới vườn hoa trung tâm, quảng trường xung quanh trồng đầy giống cọ hoàng gia quanh Tượng đài José Marti. Đằng sau là dãy nhà nổi tiếng giống như Bảo tàng Le Louvre của Pháp thu nhỏ, và khách sạn Inglaterra, nơi mà các bậc Thầy đã công khai tuyên bố kiên trì giữ vững lập trường phân lập của mình trong buổi chiêu đãi mà Đảng Tự do tổ chức tiếp ngài Adolfo Márquez Sterling, đã tín nhiệm người trẻ tuổi hùng biện, làm say mê người nghe và rất chân thật phát biểu lời cảm ơn. Khách sạn đã truyền bá một cách tự hào những vinh quang của bậc Thầy. Tướng Antonio Maceo cũng đã nghỉ ở đấy trong một thời gian ngắn ngủi ở La Habana trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến, trước khi có thất bại năm 1878.
Fidel đi bộ khắp nơi. Cậu chú ý quan sát một cách ngạc nhiên những hình ảnh thần tiên của Trung tâm Galacia và Nhà hát Tacón, cậu đi sang khu vườn của Nhà Quốc hội, cậu ngồi nghỉ trên những chiếc ghế dài bằng đá hoa cương trắng trong quảng trường… Fuente de la India, rồi lại bước đi bên gốc những cây nguyệt quế rườm rà bóng mát, lại rẽ sang phố Reina, đi theo phố Monte cho đến tận cùng, gần với tu viện dòng Nữ thánh Ursuline, rồi đưa bước chân theo phố Muralla, tại đó có nhiều cửa hiệu lớn và những kho hàng bán buôn. Fidel cần mua mấy thứ. Những cửa hiệu ở phố Reina đối mặt với Galiano, nổi tiếng như Casa de Belén, đã bày bán bộ đồng phục cho học sinh, theo như lời quảng cáo, đứng vào "hạng quần áo sang trọng, có đường nét mới mẻ, cắt may loại nhất, màu sắc bền lâu, vải không nhàu"; nhưng hãy còn thiếu mấy thứ trong bản danh sách thiết yếu mà Fidel cần mua: mấy cuốn sách tham khảo và bút mực, giấy viết. Cậu đi lang thang qua mấy đường phố nhỏ, rồi đường phố lớn hai bên trồng dương liễu cho đến sẩm tối mới quay về trường, tay xách nặng những gói đồ lặt vặt và một số kinh nghiệm trong đầu.
Vừa mới từ ngôi trường tỉnh lẻ đến trường Trung học Dolores được mấy ngày sau ngày khai giảng năm học, có lẽ vì ngây thơ hoặc có thể không chú ý đến vấn đề chẳng mấy thú vị như cái mốt trong việc mặc quần áo, cậu đến lớp học với bộ quần áo màu sắc chẳng rõ là màu gì mua ở cửa hàng của Mazorra.
Trước con mắt của những học trò Trường Belén, lũ con nhà giàu có ở La Habana và những tỉnh khác trong cả nước, một số quá là kiêu ngạo và tự phụ, thì bộ quần áo ấy là một thảm họa. Một số trong bọn họ làm ra vẻ giấu một nụ cười chế giễu, và mấy người khác nói to những lời chê bai và phê bình gay gắt với ý định làm cho cậu phải hổ thẹn và nhục nhã. Fidel không để ý đến những lời cười giễu, nhưng chú ý đến ý kiến cho bộ quần áo ấy là một thảm họa và không bao giờ mặc nó nữa.
Mỗi lần một trong những cầu thủ của đội bóng Trường Belén nhảy lên và đẩy quả bóng chui lọt rổ, cả đội tươi rộn hẳn lên, tràn đầy sung sướng, reo hò vang dội. Fidel Castro là một kiện tướng bảo vệ rổ được phát hiện trong những đội bóng rổ dưới 16 và 18 tuổi theo đúng như người ta đã viết rõ trong mục Thể thao của tờ tạp chí Ecos de Belén, trong đó có cả ảnh toàn bộ đội bóng rổ. Người ta trông thấy Fidel cao lớn mặc bộ đồ thể thao may ô liền quần soóc đặc biệt của Belén và người ta thấy ngay cậu là một vận động viên "tài năng bất khả chiến bại". Như vậy chưa hết, không một ai có thể hơn cậu để trở thành một cầu thủ mà người ta đặt lòng tin vào sự chiến thắng cho nhà trường.

 

Chủ tịch Fidel Castro thăm các chiến sỹ tại Quảng Trị năm 1973. Ảnh: cand.com.vn

Vào cuối năm thứ ba ban tú tài, cậu có mặt trong đội bóng đá, tham gia cuộc thi điền kinh, lập được kỷ lục nhảy cao 1,75 mét, và nhất là được giải ưu tú ba môn: ngôn ngữ Tây Ban Nha, Anh ngữ và Lịch sử.
Fidel có thói quen học cật lực trước kỳ thi vì cậu cho việc được điểm cao là một điều vinh dự, không phải bao giờ cũng nhờ sự cố gắng của mình mà có. Giáo sư Beláunde San Pedro được giao viết giáo trình của những môn Triết học, Lôgích học, Kinh tế chính trị, Tâm lý học, Giáo dục công dân, và ông đã viết thật dài dòng có lẽ vì cốt để lấy tiền công cho nhiều trang sách.
Trong cuộc thi về môn Giáo dục công dân, đánh giá phần đầu cậu cho rằng bài của mình tốt, tuy nhiên điểm của cậu không vượt quá 60 điểm. Đến khi nói đến đánh giá phần thứ hai, cậu quyết định học thuộc lòng cuốn sách dày độ 400 hoặc 500 trang, để trả lời chính xác cho giáo sư. Cậu đọc thuộc lòng bốn đến năm lần, và đến lần cuối cùng, bực dọc, cậu xé từng tờ một những tờ giấy vô bổ và trừu tượng của cuốn sách giải đáp, dày cộm.
Một số học sinh khác, không biết rõ chi tiết của việc đã xảy ra, lái câu chuyện thành một truyền thuyết để chứng minh trí nhớ đặc tài của Fidel Castro Ruz. Cậu tiếp tục một chương trình, tin vào hệ thống của mình. Cậu đặt nhịp độ cho việc đọc, 20 hoặc 30 trang một giờ, và sau đó làm những con tính: 30 trang, 10 tiếng đồng hồ; ba cuộc đọc, hết ba ngày.
Cậu có một bộ nhớ rất tốt, không được như bộ nhớ của máy ảnh, nhưng có khả năng nhớ rất lâu một số liệu, một tư liệu hoặc một đề tài thú vị. Khi ai đó báo cho cậu biết trong đài thiên văn to lớn của trường học lắp đặt đủ máy móc cho công việc quan sát vũ trụ và dự đoán khí tượng, không bao giờ cậu quên khoảng cách từ Mặt trăng đến Mặt trời và từ Mặt trời đến Trái đất, cũng như tốc độ của ánh sáng, địa lý thiên nhiên của hành tinh, những nước trên thế giới với thủ đô của từng nước và chế độ chính trị ở đó kể từ thời cổ đại. Fidel nhớ những bài học của đài thiên văn, ở đấy cậu biết sự hữu dụng của khí tượng học trong Chiến tranh thế giới 1914-1918, trong đó, Đại tướng Tổng tư lệnh của Quân đội Italia đã viết:
Trong khi chuẩn bị những trận đánh và chiến dịch quân sự, sự hiểu biết về những điều kiện thời tiết sắp tới có thể trở thành một yếu tố đặc biệt. Những phương tiện chiến tranh, tầm nhìn xa, sự nhanh nhẹn và khả năng về một số vận động, cho đến cả tình hình sức khoẻ của quân sĩ đều có giá trị khác nhau, tuỳ theo những điều kiện khí tượng dông bão hay yên tĩnh, trời trong sáng hay nhiều mây đen, quang tạnh hay mưa gió. Một cuộc tấn công được tính toán và chuẩn bị cẩn thận, nhưng lại bị thất bại bởi thời tiết xấu, cho nên phải cân nhắc, thậm chí phải huỷ bỏ.
Thời tiết có thể ảnh hưởng đến tất cả, tốc độ tiến chậm hay nhanh của một lực lượng, hoặc sự lạc lối của những viên đạn, và tình huống liên hiệp trực tiếp giữa hai phương diện bề ngoài có vẻ không dính dáng với nhau, như là một điều phải ghi nhớ vĩnh viễn trong trí nhớ. Tất cả phải như vậy, vì đó là những vấn đề về quan niệm, về hiện thực có thể so sánh hoặc các đề tài hứng thú.
Với cậu học trò Fidel, thật không khó khăn gì để nhớ từ đầu đến cuối bài thơ của Lope de Vega trong trang văn nghệ của tờ tạp chí Ecos de Belén do cha Francisco Barbeito chỉ đạo, in trong số từ tháng Chín đến tháng Mười hai năm 1924. Thật cảm động những vần thơ thật đẹp của bài “Bài hát ru của Chúa Đồng Trinh” vì đã hình tượng hóa một người phụ nữ van xin gió hãy lặng yên, khi đang ru đứa con mình: "Cọ Hoàng gia ở Belén hãy lay động trong không khí/ Những cơn gió phủ phàng kêu rít biết bao/ Xin đừng làm gió động vang nhiều/ Hãy chạy đi nhẹ nữa/ Hãy ngủ đi con hỡi/ Hãy giữ lấy cành cây".
Trong lần thử thách thứ hai do giáo sư Belaúnde San Pedro áp dụng, Fidel dùng những câu chuyện cầu kỳ và những lời rỗng tuếch của giáo sư, như thể viết những câu trả lời theo một cuốn sách mở trước mắt. Tuy vậy, điểm chấm vẫn quay lại con số rất thấp, bởi vì giáo sư cho điểm theo những kết luận trước của ông và chẳng cần phải đọc lại bản viết tay của Fidel.
Fidel không được đánh giá như một học sinh mẫu mực. Óc tưởng tượng của cậu thường vượt ra khỏi lớp học để đi đến mọi thế giới và những cuộc phiêu lưu, hơn nữa, cậu để một phần lớn thời giờ vào việc luyện tập thể thao. Dù vậy, cậu vẫn đến lớp rất đúng giờ và rất có kỷ luật trong những cuộc thảo luận học tập và khi gần đến ngày cuối của năm học, cậu học trong tất cả mọi giờ và bất cứ ở đâu: trong phòng ngủ, trong lớp học, ở ngoài hành lang, dưới gốc cây và nhất là ở phòng học chính, nơi đến 10 giờ đêm phải tắt hết đèn, đóng hết cửa sổ, cửa chính, và cậu như người phải nhận trách nhiệm làm công việc ấy.
Dù rằng không phải ngày nào cũng thế, cậu nghỉ ba hoặc bốn tiếng đồng hồ sau quy định ấy rồi mới đi ngủ, nhưng cũng chẳng ai để ý đến việc ấy. Nhờ đọc sách, Fidel không còn ngạc nhiên trước những điều bí ẩn của vật lý, địa lý, toán học, thực vật học, hóa học và có ý định sáng tác và tưởng tượng, để biểu thị và biến thành những bài tập cốt yếu của tư tưởng, nếu muốn chiến thắng với những điểm số cao trong các kỳ thi.
Fidel tưởng tượng ra một con ma lo âu đang đi trên những con đường bao giờ cũng cách xa lớp học và thường lãng phí thời gian ở giữa những bài học chán chường, giống như những bài truyền đạo. Trong môn Anh ngữ, Fidel rất chú ý, coi đó là một cách duy nhất để hiểu biết nghĩa của từng từ, cấu trúc văn phạm, và nhất là cách phát âm.

Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu có chuyến thăm Cuba vào tháng 7/1999. Ảnh: VOV.VN

Từ Ngôi nhà ở ẩn Monserrate, người ta nhận thấy màu xanh của lưu vực Yumuri cùng với con sông ngoằn ngoèo chảy, đem phù sa làm màu mỡ cho cả một vùng, và những quả đồi có một màu xanh đượm sương khi chiều tà buông xuống.
Tất cả đã cắm trại trên bãi cỏ ở chân đồi trong hai ngày, sau đó leo lên đến tận Ngôi nhà ở ẩn Monserrate. Đội thám hiểm của Trường Belén nằm nghỉ trên mặt đất, giữa những bức tượng ở ngay cửa ra vào, sau khi đã kiếm đủ củi để giữ ánh sáng trong lò suốt mười hai tiếng đồng hồ liền, bèn tiến lên tìm ở xung quanh mọi thứ để làm tạm những căn lều trại trong khoảng 10 phút. Có một số lán khá chắc chắn, một số khác chỉ thở cũng có thể bung ra, phải làm lại... Bấy giờ chưa phải mùa Đông, nhưng ở trên đồi vẫn có cái rét ẩm ướt của núi rừng và những trận gió mùa từ mé vịnh thổi vào lạnh ngắt.
Một anh thanh niên người tỉnh Matanzas, học sinh của Trường Belén kể rằng từ năm 1530, những lính thuỷ Tây Ban Nha biết rất rõ đường bể đi vào đây, và nhà vẽ bản đồ người Italia tên Benzoni đã càng nổi tiếng hơn khi đặt cửa bể ấy vào tấm bản đồ ông lập nên vào năm 1541, coi như một trong những cửa bể quan trọng của Hòn đảo, trong tấm bản đồ đầu tiên của Cuba. Chàng thanh niên nói chậm rãi và kể câu chuyện bằng nhiệt tình của con người yêu nơi quê hương cội rễ của mình.
Fidel ngồi nghe lơ đãng và nhớ đến những bức thư tuyệt vời của người em của Cha Amado Llorente, nhà truyền giáo tại Alaska. Những bức thư của ông về đến trường học dưới tiêu đề: "Trên đất nước băng đá”, diễn tả đời sống của những người Etkimô, cảnh vật thiên nhiên trong vùng, những mùa Đông dài dằng dặc, những mùa Hè mong manh trên thảo nguyên, cái trượt thoáng qua của xe trượt tuyết, tiếng sủa lẫn lộn, rối rít của lũ chó kéo và chó sói, và tiếng vang dài không dứt của những phát súng trên dải đất mênh mông bốn phía là chân trời.
Những bức thư của Segundo Llorente, đức cha truyền đạo tại Alaska, được xuất bản dưới tiêu đề "Tường thuật về những dải đất xa xôi" của Nhà xuất bản El siglo de las Misiones ở Bilbao có lôgô là một con thuyền buồm cổ trên mặt biển, dưới bầu trời màu xanh đậm. Sức tưởng tượng có thể lướt qua những cảnh sắc trong những dòng diễn tả tuyệt vời:
Ở Alaska, thời gian không có nghĩa gì cả. Mỗi một tàu thuỷ hơi nước, một xe trượt tuyết, một chiếc phi cơ, bất cứ việc gì cũng làm cho anh phải chờ đợi thêm một tuần lễ như đã thỏa thuận, ở đây, tất cả mọi sự ước hẹn hay thỏa thuận đều có điều kiện, cũng như mọi sự trả lời đều có điều kiện.
Tôi nghĩ chẳng có gì lạ hơn đối với một người Âu đi từ giờ nọ đến giờ kia trên con hồ đóng băng, hoặc ngồi trên những thanh sắt của chiếc xe trượt tuyết nhìn bao quát cả một bình nguyên bất tận. Sự cô đơn của đồng quê đè lên tâm hồn một cách buồn bã. Một cơn gió mùa dai dẳng ở vào 20 độ dưới không trùm lấy con người (...) Luồng hơi thở ấm dính vào những sợi lông của mũ trùm đầu mặt (...). Cần phải lau liên tục bằng khăn đôi gò má và cái mũi. Nếu để nó đóng băng, người ta lại phải kỳ cọ lại thật sạch bằng tuyết cho tới khi chỉ còn da ấm hoặc trợt xước hết da. Tôi vào một khu rừng và ngồi trên một thân cây, lắng nghe cái im ắng tuyệt đối làm cho người ta có thể cảm thấy cô đơn hết sức trên Trái đất (...).
Lại có một sự trống rỗng hoàn toàn. Cái trống rỗng đáng lẽ phải nghỉ ngơi lại thấy không yên và chỉ một lát sau, sự lặng lẽ lại thấy lào xào và tiếng rì rầm dai dẳng muốn cho người ta cảm nhận rằng có cuộc sống ở xung quanh, Trái đất vẫn chuyển động và người ta không ở trong nấm mồ. Đó là sự im lặng của thảo nguyên Alaska hoặc bình nguyên Siberi.
Không gương soi, không ghế, không thuốc đánh răng, không vòi hoa sen, không sách vở, chẳng có gì cả. Một tấm lưới, một khẩu súng, 12 con chó (...) và đấy là tất cả dụng cụ gia đình(...). Nghĩa là đã hết sức cố gắng tìm tòi, sửa chữa. Người ta đã đi tới chỗ lập cho Alaska một truyền thống rất bảo thủ và rất hợp với những sự cần thiết của địa phương. Một người tin rằng mình biết nhiều hơn những người khác và lao vào liều lĩnh không chịu ngừng đổi mới những mặc cảm đối với truyền thống, điều giản dị ấy chỉ là đùa với cuộc đời, nó có thể làm cho chính ai đã đùa giỡn có thể để mất mạng mình trong một khu rừng rối mù lên dưới băng tuyết trên bình nguyên Alaska bốn bề chân trời vô tận; vì đó là một việc làm mất dấu vết của con đường mà lạc vào một vòng tròn bất tận cho tới khi không còn lê chân đi được nữa, và vĩnh biệt (...).
Những thầy tu dòng Tên muốn được phong chức linh mục buộc phải học tập nhiều năm, qua nhiều thử thách, hoàn thành nhiệm vụ làm giáo sư ở những trường của giáo hội, trong thời gian ba hoặc bốn năm. Cha Llorente giữ chức vụ giám thị thứ hai, chịu trách nhiệm về kỷ luật ở Trường Belén, làm sôi nổi, phấn khởi những cuộc thám hiểm và cùng chia sẻ việc kể lại chuyện thám hiểm Alaska. Đức cha có cảm tình với Fidel, người mà cha đã đề cử làm tiền phong của đội thám hiểm sau một cuộc đi dã ngoại dãy núi ở Pinar del Río. Cậu học trò đã vượt sông Taco - Taco lúc nước đang lên để buộc chắc một dây thừng ở bờ bên kia cho toàn đội vượt sông một cách an toàn không bị dòng nước cuốn đi.
Khi chiều xuống, cắt những tốp canh gác. Fidel canh cho mọi người ngủ. Sau chuyến dã ngoại tới Monserrate đó, mọi người được đọc bài ký sự trên tờ Ecos de Belén:
(...) đã tổ chức một "cuộc đấu" dữ dội mà Elmo và Fidel đã chứng tỏ sự khéo léo mà cùng với thời gian cần phải nói thêm và (...) cần phải nâng cao đạo đức của những người chỉ huy phòng vệ. Fidel và Trueba đã có tinh thần cảnh giác và tất cả những người khác, cứ hai giờ lại thay nhau canh gác cho giấc ngủ của cả đoàn, giữ lửa cháy đều trong lò (...).
Fidel vẫn không ngờ chính cậu sẽ tổ chức cuộc du ngoạn lên Pan de Guajaibón năm thứ tư.
Ở trên cao, Antolin Reyes mời cậu uống nước mát nho tươi và nước mận gai rừng. Cuộc leo núi khiến mọi người mệt đứt hơi, như thể không còn đủ sức phục hồi nữa, tuy nhiên, chỉ cần ngửa mặt lên trời và ngắm nhìn phong cảnh là phục hồi ngay cả sức khoẻ lẫn tinh thần, đôi môi lại tươi đỏ, sẵn sàng tiếp tục cuộc thăm dò.
Đoàn thăm dò để lại phía sau lán trại khai thác ở Belén và đi sâu vào trong dãy núi với mong muốn chiếm lĩnh được đỉnh núi. Mọi người đi theo con đường qua Inclán, Sumidero và Mameyal đến tận điền trang Manacas.
Manacas là tên một con đường quặt ngược. Đến nơi, Fidel định giúp một nông dân gặt lúa, nhưng lúc đó, lúa còn quá xanh. Sau khi ăn trưa, Fidel áp một chiếc ghế đẩu vào tường của túp lều, nói chuyện với Antolín. Buổi chiều, không rời mắt quan sát bầu trời, cậu tin vào những người già và trang trại ở Birán. Nếu mây bao phủ sớm, ngày hôm sau, người ta chẳng thể nhìn thấy chân trời, và không thể chụp ảnh được. May sao, khi màn đêm buông xuống, các vì sao toả sáng quắc trên trời.
- Bầu trời là một mái che đầy đom đóm - anh nông dân Antolín nói bằng một giọng tự nhiên nhất trên đời, không hề tưởng đến cái ý thơ của câu nói mà anh vừa thốt ra trong lúc nhìn trời.
Sau khi leo lên tới đỉnh, họ quyết định trở về để nhẹ bớt mọi sự bất thường. Họ cần phải báo từ trạm điện báo của trang trại Manacas cho Trường Belén, bởi vì từ mấy ngày vừa qua, ở nhà không ai biết hiện giờ đoàn đang ở đâu.
Chỉ riêng cuộc thăm dò Sierra Maestra và lên tới Ngọn Turquino đã có thể vượt qua cái mức kinh nghiệm thanh niên, nhưng không phải như vậy. Cha Llorente đã tiên liệu tất cả những điều ấy, mọi người đã tụ tập ở Santiago, sẵn sàng xuống một chiếc thuyền buồm thông thường, tự nhiên, con thuyền bị hỏng và người ta phải huỷ bỏ chuyến đi. Giáo sư, không một lời nói, ngẫm nghĩ than thầm cho sự thất vọng của bọn học trò của mình, và bộ mặt đau buồn là bằng chứng rõ rệt của sự bực mình của ông.
Dưới bóng mát của ngôi nhà, Ángel Castro đọc lại những tờ báo hàng ngày. Chiếc ghế xích đu đang đưa theo nhịp chậm, đều đều mà ông đếm theo bằng ngón tay, đồng thời, một tay cầm một điếu xì gà vẫn còn chưa châm lửa, ông xoay xoay điếu xì gà, lăn lăn nó trong hai ngón tay cho mềm, ngửi nó, đưa nó ra trước mặt để ngắm cho đến khi châm lửa, vẫn không ngừng đọc những đầu bài và những bức ảnh in trên giấy báo. Kể từ đầu tháng Ba, tờ báo Informatión bình luận những cuộc tranh luận về đề nghị của Juan Marinello thuộc Đảng Xã hội nhân dân, thượng nghị sĩ của nước Cộng hoà Cuba, giáo sư và ủy viên Hội đồng toàn quốc về giáo dục và văn hóa có ý kiến ủng hộ việc đóng cửa các trường tư thục. Những trí thức tiến bộ, giáo viên nông thôn, nghệ sĩ và công nhân có học vấn đều ủng hộ ý kiến đó. Tăng lữ, phái hữu, và Ángel Castro thì coi đó là một sự vô lễ, phạm thánh.
Ángel Castro suốt buổi chiều hôm ấy phải suy nghĩ. Cậu con trai Fidel hầu như đã kết thúc ban tú tài ở trường Belén và chính thức theo học tại Trường chuyên khoa Trung học số 2 tại La Habana. Đã trải qua ba năm kể từ ngày Fidel ra đi trên con đường lầy lội của Alto Cedro cho đến bây giờ, chỉ có trong những tháng nghỉ hè mới về thăm nhà được ít ngày.
Trong suốt cả thời gian dài, Birán và Ángel Castro đã sống một cách nặng nề, lúc dông bão, lúc bình yên lặng lẽ. Đầu tiên là những bất đồng với Pedro Emilio vì khó khăn về tiền bạc, không làm tốt công việc trong nhà; sau đó, đến vụ kiện lâu dài về việc ly hôn của Ángel với bà vợ thứ nhất María Luisa Argota, một sự cắt đứt bất di bất dịch và dứt khoát được tạo thuận lợi bởi điều luật về ly hôn dựa vào năm 1918 mà điều xây dựng năm 1940 được thừa nhận, để tạo khả năng cho những công dân Cuba, có lẽ đó là nguyên nhân chính, nhờ đó mà ông Ángel Castro, sau bao nhiêu năm lập nghiệp trên hòn đảo đã quyết định nhập quốc tịch ở một nước trong quần đảo Antillas và từ bỏ quốc tịch Tây Ban Nha. Sau đó gần một năm, sự vui sướng chưa bao giờ mơ có được của ông già 67 tuổi, buổi sáng ngày 26 tháng Tư 1943, Lina và ông đã đến gặp tiến sĩ Amador Ramírez Sigas, thẩm phán toà án tỉnh, phụ trách về đăng ký hộ tịch ở Cueto để hợp thức hóa sự gắn bó qua nhiều năm giữa hai người trong một buổi lễ thành hôn kín đáo và đơn giản. Lina vẻ bình tĩnh, trong sáng. Ángel trong lúc yên lặng nhìn Lina, nhớ đến lần đầu tiên được thấy cô ấy ở bên cạnh cùng với hương thơm của cây trắc bách hương làm chiếc bình phong, tủ, hòm và cái đẹp thanh lịch của những hộp có chạm trổ những hình hoa, để đựng khăn tay lụa.
Sau đó, những đứa con của cuộc hôn nhân thứ hai này theo thời gian trôi qua, đã lớn lên như những cây trắc bách hương, cùng sự cứng rắn và sự dịu dàng âu yếm của những thân cây cứng ấy, chúng đã được ông Ángel Castro đăng ký trước công chứng viên một cách chính thức trong những ngày cuối năm 1943 ấy. Lần đăng ký thứ ba của Fidel Alejandro sửa lại ngày 11 tháng Mười hai 1943, buổi sáng sớm lúc ông Ángel khai sinh cho một đứa con trai vào ngày 13 tháng Tám, năm 1926. Văn bản đã đăng ký trong tờ 279, tập số 16.

Thủ tướng Fidel đi chặt mía cùng các công nhân năm 1961. Ảnh: VOV.VN

Lúc bấy giờ Ramón và Aurora de la Fe Castillo, mà người ta thường gọi là July đã kết hôn; Angelita cũng đã kết hôn với Mario Fraga, quân nhân chuyên nghiệp. Ngôi nhà trở nên đông đúc thêm và vui hơn bởi những đứa cháu. Trước tiên là những cháu gái: Dulce María con của Ramón và Mirtza con của Angelita.
Ramón làm việc cùng với July, một cô gái có vóc dáng một cô thiếu nữ sống ở El Perico, và theo sự sắp xếp của ông Ángel, Ramón trông coi cộng đồng kiều dân ở Hevia và Panuncia. Raúl và Juanita làm việc ở văn phòng, còn Emma cùng Augustina đi học. Fidel đã đi xa, tới nơi mà cha cậu chưa bao giờ mơ tới và rõ ràng đó là niềm vinh dự cho cả gia đình.
Tờ Nhật báo Hàng hải in trên trang 9 một bài bình luận vê cuộc tranh luận Khoa học - giáo dục "diễn ra ở Belén, thứ Bảy 22 tuần trước có liên quan đến những vấn đề của ngành giáo dục".
Ángel Castro tiếp nhận một sự vui mừng bất ngờ, vì nhà báo có nói đến cậu con trai của ông, họ đã bình luận - từ những lập trường bảo thủ của trường, dĩ nhiên - về những bản báo cáo và tường thuật mà người ta đã can thiệp giúp giữa nền giáo dục công và những trường tư thục ở những nước Hoa Kỳ, Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Hà Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Đức, Nga và Cuba.
Ông già Ángel đứng lên, bước nhanh về phía nhà kho, tay giơ cao tờ báo và phấn khởi gọi bà vợ rối rít. Đến đêm, ông kể cho mấy ông bạn chơi đôminô nghe. Ông cảm thấy hài lòng và một niềm vui trong lòng làm cho ông chớp chớp đôi mắt sáng. Cuộc tụ họp hôm ấy bàn đến những đề tài hầu như bao giờ cũng làm sôi nổi cuộc tranh luận; một số người cam đoan là Cuba ra khỏi cuộc chiến tranh một cách tốt đẹp; một số người khác thì không nghĩ như vậy và nói đến vụ đánh đắm những con tàu Santiago de Cuba và Manzanillo của Cuba, điều đó có thể là do những hoạt động tình báo của Heinz August Lunin, người Đức, bị bắn ngày 16 tháng Mười một 1942, tại pháo đài La Habana del Príncipe. Lunin, người đã đến Cuba năm 1941, sử dụng tài năng của người điện báo và máy móc radiô, dưới vỏ bọc không chê vào đâu được và cái vẻ ngoài vô vị của một thương gia gốc Mỹ Latinh để đưa tin và báo cáo cho một số tình báo Đức quốc xã tại Mỹ Latinh và châu Âu. Ngày hắn bị bắt có mang trong túi áo một vật lạ: một khẩu súng bằng chiếc bút chì, sản xuất tại Cleveland Chic, Hoa Kỳ, cỡ đạn 12mm, chỉ bắn được duy nhất một viên, cò súng kiểu bấm nút, thật sự là một phát minh về súng cỡ nhỏ, rất thịnh hành trong giới du lịch, những tay chơi chuyên nghiệp, phụ nữ tự do, phóng túng và các tình báo viên trên khắp thế giới.
Trong những buổi thảo luận mới đây, các hội viên nhớ lại thảm họa của những năm 1920, sau Vũ điệu của những nhà triệu phú và một số người đã thấy trước, với hoà bình ở châu Âu là sự sụt giá đường như lao xuống vực.
Những lời hứa hẹn của những người thuộc Đảng chân chính đã bị phai mờ trong một số tháng của chính phủ, ai là người có thể tin cậy được nếu họ đã quên chuyện đa dạng hoá nền kinh tế và công nghiệp hóa đất nước? Đảng Cộng sản có một số tổ chức cơ sở tại Preston, Cueto và Marcané, thấy như bị thiêu đốt tinh thần mỗi khi gần đến thời gian chết hoặc các Công ty Mỹ định xua đuổi những nông dân. Tại Birán, có một số người cộng sản sinh sống. Paco, người giúp việc trong kho hàng, và các anh em của anh đều là đảng viên Đảng Cộng sản. Ai đó đã mang đến những bằng chứng về các tuần lễ lộn xộn, khi công ty Altagracia định xua đuổi những nông dân ra khỏi vùng Orozco và Pontezuelo vào năm 1923 hoặc năm 1925, nhưng không thành công. Trong khi những nhà bói toán tập thể nghiên cứu những khả năng có thể nhân dân sẽ phản đối, một số tỏ ra lạc quan, số khác gia nhập nhóm những nhà tiên tri kiên quyết với câu văn bia bi thảm, tiên tri đã xác định: "Nếu mọi sự cứ tiếp diễn như thế, người ta sẽ đấu tranh".
Tay vung vẩy như cánh bướm chạy khắp ngôi nhà, với niềm vui sướng tột cùng, Lina rối rít bận rộn chuẩn bị cho chuyến đi La Habana, vì Fidel đã tốt nghiệp. Lina chuẩn bị cả quần áo dạ hội dài phải mặc trong buổi lễ mừng, theo như phong tục của nhà trường, nơi học tập của những con nhà quý tộc Cuba. Sự hài lòng về cái bằng tú tài đầu tiên của gia đình sẽ lan tỏa "trong một trăm năm, hai trăm năm hoặc đến ba trăm năm. Ôi! đến Chúa cũng không biết là bao nhiêu năm".
Điều mà bà không thể mơ tới là con bà sẽ là một sinh viên được hoan nghênh nhất trên sàn lễ hội, đầy những nhà chức trách, giáo sư, gia đình và sinh viên. Đó là vinh dự lớn nhất giữa lúc hai người còn đang ngây ngất, bởi vì cả hai đều không chờ đợi nó đến.
Trong năm thứ tư của ban tú tài, cậu sinh viên đến từ nơi xa xôi nhỏ bé Birán, ở dãy phố miền Đông hầu như chẳng có tên trên bản đồ, giờ được coi như cầu thủ bóng rổ giỏi nhất, được giải về đạo đức, và xuất sắc về những môn ngôn ngữ Tây Ban Nha và nông nghiệp. Từ tháng Chín 1944 đến tháng Sáu 1945, "bởi lòng yêu Trường Belén và sự phấn khởi đã bảo vệ Cờ hiệu Belén trong hầu hết các môn thể thao chính của trường", cuối cùng là danh hiệu vận động viên điền kinh giỏi nhất năm học, Fidel được coi như huấn luyện viên nổi tiếng của đội bóng chày và được giải thưởng về môn Xã hội học.
Vỗ tay hoan nghênh, cần phải kể đến mọi kết quả và thành tích trong học tập và thể thao cho đến cả nhân cách nổi tiếng, cao thượng, chính trực, dũng cảm của cậu. Ba năm trước, anh chàng trẻ tuổi ở tỉnh lẻ mới đến thủ đô, lần đầu mặc một chiếc áo quá dài, kiểu cổ đã gây nên sự chế giễu om sòm. Bây giờ cậu đã nổi bật lên như con át chủ bài thể thao, sinh viên, nhà thám hiểm, người bạn tốt, người ưu tú trong mọi môn học vì những hiểu biết chung, vì là một thanh niên dám tranh luận với giám thị nếu có một lý do chính đáng phải bảo vệ. Ở dưới bức ảnh của Fidel trong tờ báo Ecos de Belén và trong hồ sơ học tập sau khi tốt nghiệp, Đức Cha Llorente viết:
Fidel Castro Ruz (1942-1943). Bao giờ cũng nổi bật trong tất cả các môn học liên quan đến ngữ văn. Thành viên hội xuất sắc, một vận động viên đích thực, luôn bảo vệ một cách dũng cảm và vinh dự màu cờ của trường. Biết cách thu hút sự mến mộ và lòng yêu mến của mọi người. Sẽ theo học khoa Luật và chúng tôi tin rằng sinh viên này sẽ ghi những trang sáng ngời trong cuốn sổ cuộc đời mình. Fidel có đủ bản lĩnh và sẽ có đủ tài năng nghệ sĩ.
Tất nhiên, Fidel tranh thủ được cảm tình của những bạn đồng học. Từ ngày cậu vĩnh viễn rời khỏi trường Belén, cậu vẫn chưa cảm nhận được, nhưng không thể phủ nhận rằng những lời khen ngợi hôm đó không chỉ là một sự bất ngờ, mà còn là những lời tán dương. Tuy nhiên, những bạn hữu gần gũi nhất của mình thời gian đó không có mặt trong số người đã vỗ tay hoan hô cậu trong buổi lễ tốt nghiệp long trọng ấy.
Hết ngày, đến khi đi ngủ, Fidel nghĩ đến những thầy Manuel và Virginio Gómez Reyes, đến Gildo Miguel Fleitas và José Luis Tasende. Họ là những người bạn đích thực và gần gũi nhất, những người chung thuỷ, thật thà thời bấy giờ. Ba người trên làm việc như những công chức ở Belén. Virginio Gómez, tính khắc khổ, nghiêm nghị, làm đầu bếp, và em cậu ta là Manuel, phụ bếp cho anh, con người rất vui và trẻ.
Gildo Fleitas học trong trường La Salle, quận Vedado và sau đó, học ở Học viện Thương mại Habana, tuy không học hết, nhưng biết đánh máy và tốc ký, hai nghề đã giúp anh ta được làm việc ở Văn phòng của Trường Belén và luôn thể học thêm Anh ngữ tại Trường Điện cơ. Đối với José Luis, cậu quen biết anh ta trong một cuộc đánh bóng chày đấu với đội học trò của Viện Inclán... Với những người ấy trong thành phố xa xôi đối với những vùng đất Birán, Fidel đã thắt chặt mối quan hệ như anh em trong một nhà.
Khi về đến Oriente, Fidel nhận được rất nhiều lời khen ngợi, chúc mừng. Lina kể về chuyến đi và những thành tích của con trai mình cho tất cả mọi người trong điền trang và cả những khách hàng nghe. Còn ông già Ángel thì không. Ông bộc lộ những tình cảm tôn trọng và tin tưởng, dù rằng có lẽ ông không muốn để quá lộ liễu sự khâm phục của mình. Ông tặng cho con trai dây chuyền, khóa thắt lưng, đồng hồ vàng... tất cả các thứ đó không những là vật sở hữu rất có giá trị của chính nó, mà còn có cả giá trị về tình thương, bởi lẽ mang theo những thứ đó, như những sợi dây ràng buộc tình cảm trong quá khứ.
Đồng hồ chỉ thời gian từ bao lâu nay và đã không bao giờ dừng lại.
(Còn nữa)

Bình luận bài viết

Bình luận

BÁO HÀ NAM ĐIỆN TỬ

Giấy phép xuất bản số 68/GP-BTTTT do Bộ Thông tin - Truyền thông cấp ngày 16/2/2017

Địa chỉ: Đình Tràng, phường Lam Hạ, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam

Tổng Biên tập: Nguyễn Duy Tuấn

Điện thoại: (0226) 3852.773 - 3853.342 | Fax: (0226)3853.342

Email: baohanam.dientu@gmail.com

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Nha khoa Daisy