Sống mãi như những cây trắc bách hương - Những con người

Ở Birán không có một trại lính nào, chỉ có hai người lính trông coi con ngựa giống, theo chương trình của chính phủ, để cải tiến giống ngựa equido. Anh chàng Campos thì béo và lùn, còn Piloto thì chân đi khập khiễng.

Thủ tướng Fidel Castro trả lời câu hỏi của phóng viên NBC (Mỹ) Barbara Walters trong buổi họp báo dành cho báo chí Mỹ đưa tin về chuyến thăm Cuba của nghị sĩ Mỹ George McGovern vào tháng 5/1975. Ảnh: VOV.VN

Những con ngựa to lớn, oai vệ, được mang đến từ Texas. Tất cả phục vụ cho "Đội kỵ binh phòng vệ nông thôn" do Hoa Kỳ lập ra ở Cuba, từ buổi ban đầu của nước Cộng hoà, nhằm thị uy những người bất hạnh, bằng những con dao chặt mía Paragoay dắt bên lưng, roi vọt, súng ống Mỹ, bộ đồng phục không chê vào đâu được, chiếc mũ lông hải ly và thói quen đi tuần tra với khí thế hung hăng, thô bạo.

Hầu như tất cả những trại lính của chúng đều phụ thuộc vào những nhà máy đường và dưới quyền của nhà quản lý người Mỹ, của các công chức cấp cao hoặc những chủ đồn điền ở những vùng lân cận. Nói chung, họ có nhiệm vụ đàn áp các cuộc đình công, áp đặt "luật lệ của họ" đối với các công đoàn và xua đuổi nông dân.

Ở Birán không có một trại lính nào, chỉ có hai người lính trông coi con ngựa giống, theo chương trình của chính phủ, để cải tiến giống ngựa equido. Anh chàng Campos thì béo và lùn, còn Piloto thì chân đi khập khiễng.

Ángel là người chủ của hầu hết các nhà máy đường, ông có uy quyền lớn, không ai chối cãi được, và ở đấy, cũng đặt một trạm gác quân sự nhỏ. Lính tráng tôn trọng người chủ đồn điền như một đẳng cấp chủ yếu, họ nhìn và nói nhỏ nhẹ với ông chủ, coi như mình bắt buộc phải vâng lời. Tuy nhiên, thái độ của họ khác hẳn những người lao động và dân nghèo. Những người con trong nhà, nấp dưới uy quyền của ông Ángel, phải ngăn chặn những điều quá đáng của đám lính.

Một hôm, Piloto định bắt giữ một ông già vì hái quít ăn. Yago là công nhân ở trang trại. Raúl và Juanita đến nói với người lính: "Này ông, cứ để ông già hái quít, đằng kia còn nhiều lắm".

Trong một lần khác, Yago hái mấy quả cam cho các con gái của mình, vừa mới đến từ nhà máy đường. Chính tay Piloto bắt giữ mang ông già đến Marcané. Tino Cortina và một số người lao động cũng đến đấy, sau đó là Fidel, buộc viên trung sĩ: "Anh hãy ngay lập tức dẹp tất cả những cái trò ấy đi và hãy thả ông ấy ra cho tôi".

Vợ chồng Castro và con cái thường xuyên can thiệp giúp nhiều người khác. Lính tráng ở nơi khác không rõ bối cảnh gia đình ở Birán, nên thường bỏ qua. Khi còn rất trẻ, Fidel đã bảo vệ cho Serrucho, một trong những người Haiti làm việc ở nhà máy đường, bị một tên lính bảo vệ bức hại. Sự việc trở nên gay go, khi tên lính này rút súng lục ra và Fidel tiếp tục đương đầu với tên lính, mà không chú ý đến sự rủi ro ghê gớm sẽ xảy ra.

Lina cũng không thể tha thứ khi thấy sự có mặt của mình đã khiến cho Serapio Batista, một nông dân ở địa phương bị mưu sát. Tên lính bảo vệ rút súng bắn bị thương Serapio, người da đen, trong lúc đó, mọi người lo sợ, còn Lina, nhanh chóng và kiên quyết đứng giữa tên lính bảo vệ và Serapio, để anh này không bị bắn chết, và Ramón khẩn cấp đưa Serapio đến bệnh viện Marcané.

Mặc dù vậy, cũng có những người lính tỏ ra biết tôn trọng danh dự. Một vài người mắc nợ ông chủ ruộng đất người Tây Ban Nha, và một số khác có cảm tình với người con là luật sư, nổi tiếng vì những cuộc đấu tranh, với tư cách là người lãnh đạo sinh viên và thành viên của Đảng Chính thống.

Những tiếng xào xạc của rừng cây trong đêm đã nhường chỗ cho sự im lặng của mưa phùn vào buổi sáng 26 tháng Bảy, mà không ai tiên đoán được cơn bão táp, khi một tên lính của đội phòng vệ nông thôn xông vào ngôi nhà lớn ở Birán, thông báo rằng: mọi người phải trình diện ở sở chỉ huy cấp cao ở Marcané, vì có vấn đề ở Santiago de Cuba.

Tên lính cất cao giọng và kể lại bằng những câu rời rạc, xác nhận rằng Trại lính Moncada đã bị tấn công. Tên lính vội vàng bỏ đi cũng như lúc đến, và sau đó, phảng phất trong ngôi nhà một cảm giác lo âu, sợ hãi.

Angelita biết được điều gì đã xảy ra, nên không nói gì cả, đi lại trong các phòng cho bớt lo lắng. Angelita vừa mới đến từ La Habana và nhớ rất rõ những cuộc họp bí mật trong nhiều giờ giữa Fidel với Abel và những thanh niên khác, trong một gian phòng của căn hộ ở đấy, thuộc khu phân cách Nicanoz del Campo, nơi người anh của Fidel đã từng sống ở đây. Myrta và Angelita tự hỏi không hiểu họ dự định những mưu toan gì trong cuộc họp thầm kín như vậy. Chắc chắn là Fidel và Raúl có dính líu đến vụ việc này, và đó sẽ là gánh nặng cho gia đình.

Ángel đau buồn khóc trước hình ảnh Quả tim thiêng liêng, nhiều lần cầu xin cứu vớt cho con mình. Lina thì chịu đựng nỗi đau khổ khôn nguôi và phải hết sức bình tĩnh, vì chồng bà là một người cao tuổi và không thể để cả hai trở thành những tảng đá lăn xuống vực thẳm của thất vọng. Lina cố kìm giữ dòng nước mắt và an ủi chồng, bảo đảm rằng các con vẫn còn sống, tuy trong lòng vẫn bối rối, ngờ vực. Những hình ảnh lướt qua trong trí nhớ của Lina khiến bà không ngừng rơi lệ, kể từ khi những tin tức về cuộc tấn công trại lính Moncada lan đến trang trại. Thế rồi, để làm yên lòng Ángel, bà nhắc đi nhắc lại: "Này ông, các con đã là những người trưởng thành rồi".

Điều đó khẳng định một cách chắc chắn rằng thời gian qua, sự thiếu vắng các con là điều không thể tránh khỏi được. Những đứa con nhỏ còn nằm nôi với sự yêu thương của mẹ, nay đã trưởng thành. Không thể quên được những kinh nghiệm sống khi Ramón đang còn bé bỏng. Cơn gió biển mang theo sự ẩm ướt làm cho Ramón như bị ngạt thở, với những tiếng rít khàn khàn chỉ có thể dập tắt được nhờ ống hít măngtôn và dầu nóng cá thu mà Lina xoa vào ngực con, trong những đêm thao thức đầy buồn thảm. Từ đó, Lina không còn cảm thấy bứt rứt nữa. Nhưng bây giờ thì tâm hồn Lina lại đau đớn tột cùng về một điềm báo. Bà không giải thích được nỗi lo âu, day dứt và sự xen lẫn hiếm thấy giữa niềm tự hào tột độ và nỗi đau bất tận.

Fidel phát biểu trước đám đông ở Colon vào tháng 1/1959. Ảnh: VOV.VN

Các con đã khôn lớn và bắt đầu sống cuộc sống riêng của chúng. Bà không thể làm gì hơn ngoài việc ủng hộ những quyết định của các con như vẫn làm lâu nay là nhượng bộ hoàn toàn, hoặc có lẽ tốt hơn là chấp nhận một cách cương quyết sự dũng cảm và những rủi ro của các con. Để thuyết phục chồng, Lina nhắc lại những ký ức, cuộc viễn chinh đến Cù lao Confites, chuyến đi Bogotá và biết bao nhiêu mối nguy hiểm mà Fidel đã vượt qua được trong những năm tháng ở trường đại học.

Ángel thì buồn phiền. Tania ngạc nhiên nhìn ông, vì đây là lần đầu tiên trông thấy ông nội như vậy. Sự cao quý và oai phong tự nhiên của ông đã giảm bớt và dường như ông ngày càng già, với đôi mắt lờ đờ. Ông ngồi trên chiếc ghế, mệt mỏi, không cử động và khóc nức nở, uể oải, buồn tủi. Ángel không rời chiếc radio, lắng nghe các tin tức. Cặp điếu xì gà giữa các ngón tay, vê vê rồi khoan khoái hút, Ángel ngước mắt nhìn, tưởng tượng, lo lắng như đã tan biến theo những làn khói bốc hơi trong không khí.

Giữa trưa, mọi người nhìn mà không ai dám thú nhận sự lo sợ của mình và không nói một lời. Một con bướm cất cánh bay chấp chới, bay xuống, bay lên, rồi bay vòng quanh giữa sự im lặng và ánh sáng đầy màu sắc ở tất cả hành lang của ngôi nhà lớn. Lina vẫn đưa mắt nhìn theo ánh sáng sặc sỡ của con bướm: lúc thì bay gần, lúc bay xa, lúc thì không cử động... Có lúc Lina thấy ngán ngẩm về con côn trùng bay đi, bay lại rồi lọt vào cửa trước và đậu trên những hoa giấy cắm trong lọ sứ, đặt trên bàn của căn phòng. Lina không giữ được bình tĩnh, đi đi lại lại với vẻ lo lắng, rồi lớn tiếng cầu nguyện, khiến tất cả các em bé trong nhà và hai con gái Angelita và Juanita cúi rạp xuống trước hình ảnh của Nữ Đồng trinh thần bí.

Bà Dominga cũng cầu nguyện với lòng kính cẩn như hồi đầu thế kỷ bà đã làm trong cơn lốc của trận bão năm ngày năm đêm ở Pinar del Río, nơi nước lũ dâng lên đã huỷ hoại những vườn trồng thuốc lá, những túp lều tranh và những cây cổ thụ.

Thường ngày, con cái của Ángel thấy ông say mê đọc các báo từ La Habana đến và chú ý đến những vấn đề chính trị và các sự kiện nổi bật, làm rung chuyển thế giới, nhưng điều mà ông già không bao giờ tưởng tượng là lịch sử đã phát triển ngay trong chính mái ấm gia đình mình, trong chính Birán và chính những con trai của mình là những nhân vật chủ chốt của một thời đại, của một cuộc cách mạng.

"Cánh bướm mùa Xuân/tâm hồn cao cả đang lang thang/khắp các ngôi vườn của những ước mơ của tôi tiếng radio cùng với tiếng máy hát RCA Victor đã hoà quyện trong gió thành một giai điệu, khiến Lina nhớ đến con bướm kia ve vẩy cánh bay không ngừng, có lẽ đó là điều duy nhất và làm giảm bớt phần nào sự căng thẳng của bà, và giờ phút hạnh phúc này đã tiêu tan nỗi lo âu trong hơn 48 tiếng đồng hồ vừa qua.

Ramón nhận được tin ở Holguín. Có người nào đó đã đến nhà, nơi Ramón có mặt, và nói về những cuộc đụng độ ở Santiago de Cuba và Bayamo. Ramón nghĩ đến việc Fidel giao nhiệm vụ tìm vũ khí và chuẩn bị người. Ramón lúc này đã thông cảm với Fidel về tất cả những điều đó.

Không suy tính, Ramón rời thành phố đi Cueto, theo con đường đang vang rền tiếng súng và thiết quân luật. Các toán lính của quân đội đã đi qua để thu dọn chiến trường. Lộ rõ không khí chiến tranh và căng thẳng, như báo hiệu một cuộc đàn áp dã man hơn. Chiếc xe taxi đưa Ramón đến quán cà phê Pitado bên cạnh cây xăng, nơi đây, mấy tuần trước, Ramón đã gặp Fidel và Abel. Ramón mua đầy đủ hàng hoá ở các cửa hàng cung cấp, rồi chuyển lên chiếc môtô chạy đến Marcané, nơi đã dùng cách vận chuyển này để ngụy trang số vũ khí được cất giấu trong ngôi nhà của Ramón ở nhà máy đường. Một số vũ khí được cất giấu ở nhà của Aleides Corredera. Những loại vũ khí tốt nhất như khẩu súng trường 30-30 của Áo, súng tự động, súng lục và những khẩu súng săn đều được Ramón mang đến Birán và trao cho Carlitos Cortina, để cất giấu ở Caladraga, nơi một số đồng chí trong chi bộ sinh sống, trong đó có Ángel Rodríguez và Bermúdez.

Trên đường đi Canapú, Ramón trò chuyện với Joaquín Fernández, đảng viên cộng sản rất thân quen với Ángel, đã có lần thông báo cho anh chàng nông dân Almeida mang đến đấy một số ngựa và đưa Lina và các con đến Birán mà không gặp trở ngại nào, sau một chuyến đi dài từ thủ phủ của tỉnh.

- Ramón, ông có biết ai đã tấn công trại lính Moncada? Joaquín hỏi như vậy và chắc chắn là sẽ có câu trả lời.

Ramón trả lời một cách thuyết phục: - Fidel, thôi đừng nói chuyện đó nữa.

Số vũ khí được đưa đến cùng với chiếc cần cẩu số 31, rồi được chuyển sang chiếc xe kéo hai bánh, để trao cho Carlitos, người sẽ mang số vũ khí này đến El Perico để ném xuống một cái giếng, vì tình hình đã trở nên rất không an toàn.

Ramón bước vào ngôi nhà lớn, cảm thấy có sự hoang vắng, chỉ nghe thấy tiếng radio và ông Ángel ngồi chăm chú nghe tin tức. Ông chán nản hút xì gà, tỏ vẻ phiền muộn, mệt mỏi và lo lắng. Ông trách Fidel đã đưa cả Raúl đi học, tức là Becerrito, cái tên mà ông thường gọi Raúl, cậu con trai bé nhất nhà, để bây giờ đang cùng gặp những rủi ro khi xảy ra cuộc tấn công vào Moncada.

Hai người con của Ángel đang gặp cơn nguy hiểm, cả gia đình rất nóng lòng chờ đợi diễn biến của sự kiện. Lina động viên Ángel vỗ vai chồng và nói sẽ gấp rút khiếu nại và chờ phản ứng.

Alejandro, em của Lina, biết được tin qua Carlos Falcón rằng:

- Chị không biết là Fidel đã tấn công vào Santiago tối hôm qua và có rất nhiều người chết à?

Khi vào nhà của bà chị, Alejandro rất ngạc nhiên thấy Ángel đang khóc than:

- Chúng giết chết hai đứa con của tôi rồi!

Ngay trong ngày hôm đó, có người đã gợi ý cho Juan Socarrás nên xóa cái tên Raúl trong bảng quảng cáo nhà hàng La Paloma. Mọi người dự đoán rằng thậm chí đến cái tên của những chàng trai đó cũng gây sự thù hằn trong bọn lính.

Ramón quay về Marcané để tìm hiểu tin tức qua những đồng chí thân quen trong thôn xóm vừa đi tàu hoả đến từ Santiago. Họ cũng chẳng có tin gì mới mẻ. Sự im lặng có vẻ không thể chịu đựng được nữa. Zuly, vợ của Ramón, thấy ông mất bình tĩnh và ngay đến các con như Dulce, Ángel Ramón và Omar cũng đều trố mắt nhìn ông và đoán thấy dường như bố mình có nỗi buồn, xen lẫn niềm tự hào và sự bất lực.

Sáng ngày 27, người phụ trách về nhà ở của điền trang cho biết là có ba chiến sĩ tấn công Moncada đang ẩn nấp ở nhà ga xe lửa. Đó là Raúl de Aguiar, Armando del Valle và Andrés Valdés được đưa về trốn ở trang trại. Được biết Raúl de Aguiar trước đó có đến thăm Birán và có lần đi cùng với Fidel trong dịp nghỉ hè của trường đại học, và đi du ngoạn đến Pinares de Mayarí. Ramón đến nhà hàng Paloma tìm Carlos Cortĩna và nhờ che giấu hộ mấy chàng trai này. Thế rồi, họ đưa đi trốn ở một cánh đồng mía, rồi mang nước uống, thức ăn, quần áo và tiền bạc đến, đồng thời còn hướng dẫn cho các chàng trai chờ đến tối hãy ra đi, cho đỡ rủi ro.

Khi Carlo Cortĩna nhận được thông báo thì bọn lính đã vạch kế hoạch xong rồi. Chúng tố cáo mấy chàng trai, còn bọn cảnh vệ nông thôn thì theo dõi bước chân của họ. Từ trạm gác Marcané, chúng cử một viên chỉ huy và tám tên lính đến, rồi đóng chốt tại con đường đi đến cánh đồng dứa. Bọn lính mang thông điệp và kéo cả Chichito, một người lao động của điền trang cùng đi. Anh này khuyên các chàng trai không nên sốt ruột và hãy đợi đấy, nhưng các chàng trai đã chủ động gấp rút, liều lĩnh bỏ đi. Đến ngày 28, họ bị thủ tiêu, trên đường đi đến Palma, gần sông Cauto. Viên trung uý của đồn Alto Cedro, viên thiếu uý Montes de Oca và tên chỉ huy Maceo chôn các nạn nhân của chúng trong một hố sâu nằm ở bờ sông, gần một nơi thường gọi là Bananea. Chúng đã làm giống như bọn cảnh sát, với sự tàn bạo lạnh lùng khi tra tấn và bắn chết các tù nhân ở Santiago.

Ngày hôm sau, Carmenate, viên chỉ huy ở Marcané, ra lệnh tìm Carlos Cortĩna để gửi một thông điệp cho Ángel, trong đó nói rằng ông đừng lo và bảo đảm với ông rằng nếu mấy chàng trai vẫn còn ở đó thì không chết. Carmenate cũng báo trước cho Ángel biết rằng có thể nghe rất gần những tiếng động về ban đêm, vì ông đã nhận được lệnh bao vây ngôi nhà.

Carlos chạy ngay đến chỗ ông già, vì rằng nguồn tin đó tuy phải thận trọng, nhưng chứng tỏ rằng mấy chàng trai vẫn còn sống. Ángel cảm ơn Carlos và nói: "Ông đã mang đến cho tôi viên thuốc an thần, có lẽ bây giờ tôi có thể nghỉ ngơi một lúc". Còn Carlos thì hài lòng vì đã mang đến một chút yên tĩnh cho Ángel, khiến tinh thần được ổn định phần nào, bởi vì sự tôn trọng và rộng lượng mà ông đã thể hiện trong suốt những năm tháng chưa bao giờ được đền đáp.

Mặc dù nhận được tin như vậy, Ángel vẫn không sao ngủ được vì cảm thấy Lina lo lắng bên cạnh mình, ông thở hổn hển và an ủi Lina bằng giọng nói nhỏ nhẹ. Đôi mí mắt cũng như toàn thân nặng trĩu, những mối ngờ vực vẫn còn đó.

Sáng ngày 28, nữ Tiến sĩ Ana Rosa Sánchez đến Birán mang theo tin rằng một viên cảnh sát biết được nơi Raúl đang ẩn nấp và hắn đòi 10 nghìn pêsô để không khai báo.

Ángel đưa tay lên đầu, chán ngán:

- Ôi, mẹ ơi! lúc này, tôi làm sao có được 10 nghìn pêsô!

Trong lúc thất vọng, Ángel nghĩ cách ký một tờ séc cho ngân hàng Cueto. Lina lo xa và nói: Được rồi, tôi sẽ chuẩn bị và chính tôi sẽ mang tờ séc ấy đi. Khi bất ngờ trả lời như vậy cho Ángel thì Lina nhận thấy Tiến sĩ Ana Rosa có vẻ ngờ vực và dao động. Lúc bấy giờ, Lina bắt đầu nghi ngờ.

Angelita tìm cách trấn tĩnh ông Ángel, nhưng không có kết quả. Lo lắng và đau khổ khôn lường, Ángel hỏi con:

- Con dám đi Santiago không?

- Vâng con dám.

- Bố tạm biệt con với hy vọng nhận được tin tốt lành.

Angelita không mang hành lý, chỉ cầm một túi xách tay, trong đó bỏ một ít tiền và một chiếc mùi soa rất mỏng bằng lụa thêu, thơm nức mùi hoa hồng. Angelita ra đi trên chiếc xe jeep của Công đoàn Marcané, chở cô đi thẳng đến con đường chính để tránh không đi qua Cueto, nơi có thể bị bắt. Angelita lên xe buýt chạy đường Santiago - Habana, trên tuyến đường Mayarí. May mắn, Angelita quen biết các tài xế trên chặng đường, vì cô thường xuyên đi về thủ đô.

Lãnh tụ Castro ôm lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev tại Liên Hợp quốc vào ngày 20/9/1960. Ảnh: VOV.VN

Ở Bayamo, Angelita cảm thấy như sắp bị mất hồn, khi các tên lính buộc mọi người xuống xe. Chúng lục soát, tra hỏi, rồi cho đi. Khi đến thành phố, các tài xế nhấn mạnh rằng cô phải cẩn thận và gợi ý nếu gặp bất cứ trường hợp nào xấu, thì cứ gọi họ. Bằng một cử chỉ tốt đẹp và kiên quyết, họ nói với Angelita rằng: "Cô biết rõ chúng tôi ở khách sạn nào rồi, chúng tôi sẽ là những người làm chứng rằng cô đã đến đây hôm nay cùng chúng tôi".

Angelita thuê xe đi thăm một gia đình mà cô coi như có quan hệ bạn bè tốt. Một người phụ nữ trách cô sao lại có mặt ở đây, Angelita thất vọng bỏ đi ngay trên những con đường có lính tuần tra. Trước khi đi, người quen thân khác trong ngôi nhà cảm thấy buồn phiền vì thái độ của người phụ nữ kia, họ đọc một câu của Justo Juez để cầu nguyện cho Angelita tránh được bọn địch trên đường đi.

Angelita đi đến bến dừng xe buýt, lòng nặng trĩu, lầm rầm cầu nguyện nhiều lần, với giọng đứt đoạn và lạ lùng. Tay run run chứng tỏ sự lo âu, không biết số phận của hai anh Fidel và Raúl ra sao. Tiếng súng làm náo động cả thành phố, người ta thì thầm về sự khủng khiếp và lo sợ, kể lại những câu chuyện rất lôi cuốn, gây sợ hãi và tính xem có bao nhiêu người chết.

Vợ của Piloto, một phụ nữ gầy còm và hay làm điệu bộ, đón tiếp Angelita, vì Piloto tham gia chiến dịch chưa về. Vợ của Piloto vẫn tỏ vẻ ngạc nhiên lo sợ, nhưng vẫn vô tư và thân thiện:

- Angelita, trời ơi! Sao cháu lại ở đây! Cháu từ đâu đến?

- Từ Birán. Bố tôi rất thất vọng và muốn bà hỏi Piloto xem có biết gì về hai người con của bố tôi có còn sống không?

Bà trả lời:

- Đợi Juan José đến xem sao.

Chàng trai này là một thanh niên 18 hoặc 20 tuổi, nhập ngũ, trở về, áo ướt đẫm mồ hôi đến từ Siboney xa xôi, nơi quân lính đang theo dõi dấu vết của một nhóm chiến sĩ cách mạng, nhưng anh không biết gì cả. Sau đó, Piloto đến, cho biết Fidel và Raúl vẫn còn sống và đang bị truy đuổi. Piloto còn nói thêm: ngoài ra, Raúl ẩn nấp ở nhà bác sĩ Ana Rosa Sánchez. Chúng tôi đã đến đấy và quay lại mà không thấy gì cả, nhưng tôi tin chắc rằng Raúl đã ở đấy.

Điều mà Piloto nhận thức là đúng, vì sau khi Raúl làm chủ được Dinh Tư pháp và quan sát từ sân thượng, các chiến sĩ cách mạng rút lui, sau khi tấn công vào trại lính Moncada, tước vũ khí quân Batista và đến nhà thuốc của bác sĩ Ana Rosa Sanchez là góa phụ của Fidel Pinos Sántos, có một người bạn mới mang họ Quesada là cảnh sát từ thời Chính phủ Príso. Tomasín, con trai của bác sĩ Ana Rosa, đưa Raúl đến nhà một vài người thân của Quesada, rồi từ đó, cũng tìm được nơi ẩn náu cho Raúl ở một nhà khác nơi có một cụ già và một người câm. Từ đó, Tomasín đối xử với Raúl như một người bạn tốt. Trong lúc Raúl đang ở đấy, thì được tin về sự bắt bớ của cảnh sát, nên quyết định rời đi nơi khác. Người câm tìm cho Raúl một chiếc áo sơ mi để Raúl đi đến một địa điểm gần Birán. Tuy nhiên, trên chặng đường từ làng Dos Caminos đến Sanluis, Raúl không thoát được mà bị bắt, cuối cùng, chúng nhận diện được Raúl. Thế là chúng đưa Raúl đến Moncada, sau đó, đưa đến Vivac, rồi đưa đến Boniato.

Angelita tin vào điều Piloto nói vì trùng hợp với nhiều ý kiến khác. Thay mặt bố, Angelita chậm rãi nói:

- Này, bố tôi dặn nói với ông rằng nếu có chạm trán với Fidel và Raúl, đề nghị hãy kết bạn với họ.

- Nếu các ông ấy không bắn tôi, thì tôi không bắn.

- Không ai bảo rằng ông giết họ, Angelita vội đáp lại ngay.

Piloto dặn cháu nội mình cùng đi với Angelita đến khách sạn, vì đã gần 6 giờ chiều rồi và không thể ra đường vào giờ ấy.

Bà chủ khách sạn Rex ngạc nhiên nói:

- Này, nhét vào đâu được bây giờ! Vì có một số chàng trai đã ở đây trước cuộc tấn công Moncada, bây giờ bọn lính thường kiểm tra các phòng vào ban đêm.

Suy nghĩ một lúc, bà chủ an ủi Angelita:

- Nhưng cô đừng lo, chúng tôi sẽ đi cùng họ từng phòng một và tôi sẽ giải thích trong bất cứ tình huống nào.

Angelita nhờ người phục vụ thuê một chiếc ôtô và đánh thức cô vào lúc 5 giờ sáng.

Những tiếng ồn, tiếng súng và những giọng nói vẫn không dứt. Khi thức dậy và rời khỏi nơi này, Angelita cảm thấy nhẹ nhõm. Khi các tài xế trông thấy Angelita, họ cũng thấy nhẹ nhõm và nói:

- Từ khi chúng ta xa nhau, chúng tôi chỉ nghĩ đến cô. Angelita đánh giá cao cử chỉ đó. Thật là xúc động khi được biết rằng họ lo lắng cho cô. Ở Cueto, Angelita xuống xe buýt và lên tàu hoả đi Marcané, rồi từ đây, xe jeep của quân đội đưa Angelita đến nhà của Ramón. Người ta lo sợ, cho rằng có thể xảy ra việc bắt bớ, nhưng không phải vậy... Trung uý Rivas không ăn cánh với chính phủ và tỏ ra tế nhị, khéo léo, tôn trọng gia đình và ông già Ángel Castro.

Bất chấp sự tàn ác dã man, Angelita nở nụ cười làm yên lòng bố mẹ, khi khẳng định rằng Fidel và Raúl vẫn còn sống. Thế là, ở Birán, người ta biết rằng lời đe dọa tố cáo Raúl chỉ là trò bịp để vòi tiền. Lina nhẹ nhàng ngả vào ghế, như người cần thư giãn, vì tinh thần quá mệt mỏi sau bao nhiêu ngày đầy xúc động âm thầm và hoàn toàn đứng trên bờ vực thẳm. Ángel ngả lưng vào chiếc ghế bành. Lần đầu tiên, ông chăm chú nhìn con bướm nhiều màu đang bay lượn trước mắt Lina, rồi biến đi giữa những nụ hoa của vườn cam, ở cuối ngôi nhà lớn ở Birán, đồng thời ông nhắm mắt than thở:

- Chúng ta còn có thể tin vào sự phù hộ của Thượng đế!

Bức thư viết trên những trang giấy của cuốn vở có dòng kẻ, đề ngày 5 tháng Chín 1953, là cả một sự kiện vui mừng đối với Ramón.

Cuối cùng, Ramón nhận được tin của em mình, cho dù có sự kiểm duyệt. Những lời lẽ chứng tỏ tinh thần bình thản và quật khởi của Fidel, đôi khi toát lên sự mỉa mai cay đắng, để rồi vút lên như bản giao hưởng của Beethoven bằng một giọng ca trong sáng. Ngoài ra, bức thư khẳng định:

"(...) Em không hề cảm thấy bất cứ sự hối hận nào, mà hoàn toàn tin tưởng rằng em hy sinh vì Tổ quốc và hoàn thành nhiệm vụ, điều đó, lẽ tất nhiên là một sự cổ vũ lớn. Nhưng bản thân em thấy băn khoăn và đau lòng nhớ đến những đồng chí tốt của em ngã xuống trong cuộc đấu tranh. Nhưng các dân tộc chỉ tiến lên như vậy, nhờ sự hy sinh của những người con tốt nhất của mình. Đó là quy luật lịch sử và phải chấp nhận nó".

Trong bức thư trả lời Ramón về ý tưởng tự bào chữa, Fidel nói: "Em thấy điều đó là đúng và em cũng đã nghĩ như  vậy ngay từ đầu. Phiên tòa xét xử đã chuyển sang ngày 21".

Fidel ngồi viết ở cái bàn đặt ở xà lim có tường bẩn thỉu, chiếu sáng liên tục, kể cả ban ngày sáng bạch lẫn ban đêm tăm tối, bởi những kính phản xạ sáng chói. Fidel còn bị canh gác từ sân thượng bởi một tháp canh.

Từ hành lang, một khẩu tiểu liên cỡ 30 luôn chĩa thẳng vào Fidel. Trước những âm mưu sát hại, Fidel đấu tranh không mệt mỏi, chuẩn bị những lời bào chữa: "Lịch sử sẽ minh chứng cho tôi", và mơ ước một ngày nào đó, màu vàng của bộ đồng phục của các lực lượng vũ trang sẽ thay thế bằng màu xanh thắm của cây cối và cây dương xỉ, màu xanh đã thấm vào da thịt của nghĩa quân sống trong rừng núi.

Fidel và Raúl đã gặp lại nhau, mặc dù chúng không cho phép hai người tiếp cận và nói chuyện. Điều chắc chắn là cả hai người vẫn còn sống, như vậy cũng đủ gây một ấn tượng đáng ghi nhớ. Raúl luôn luôn nhớ đến hình ảnh của Fidel, khi bị đưa vào nhà tù Boniato, nơi định làm nhục Fidel, tuy nhiên Fidel đã bảo vệ danh dự, tỏ rõ tinh thần cực kỳ kiên định và cao thượng của mình. Raúl đến giúp đỡ Reynaldo Benítez bị thương ở chân chưa chữa khỏi. Khi nhìn thấy Raúl, Fidel hết sức vui mừng vì biết em mình còn sống.

Fidel nhớ như in tất cả những gì đã xảy ra trong ngày 26, những chi tiết về yếu tố bất ngờ và những điều cần suy ngẫm sau đó: những bọn nhát gan có luận điệu đáng khinh bỉ nói rằng: "Về mặt pháp lý, chúng ta đã phạm sai lầm về thắng lợi hay thất bại. Điều này là do những tình tiết nghiệt ngã ở phút chót, khiến ai cũng điên đầu suy nghĩ về những điều đó. Khả năng chiến thắng tùy thuộc vào những phương tiện của chúng ta, nếu có được đầy đủ phương tiện thì tôi không còn lưỡng lự gì là chiến đấu với 90 phần trăm khả năng".

Fidel cũng nhớ lại lệnh rút lui và sự có mặt của anh đến phút chót cuộc chiến, cho đến khi anh leo lên chiếc ôtô cuối cùng, rồi sau đó, xuống xe một lúc, và nhường chỗ của anh cho Abelardo Crespo đang bị thương. Fidel đứng một mình giữa đường và bắt đầu rút lui, nhưng vẫn tiếp tục nổ súng, cho đến khi có một chiếc ôtô khác tiến đến và đón anh đi. Sau đó, xảy ra việc tập hợp lại ở Siboney, giờ phút khó khăn để khắc phục điều không may mắn và bắt đầu hành quân về núi rừng, để chỉnh đốn lại cuộc chiến đấu ở Chiến khu Sierra Maestra.

Ngày 1 tháng Tám, trung uý Pedro Sarría, anh chàng thanh niên mà trong những ngày thi đại học đã đến ở chung cư của Đoàn Công binh, nằm ngay trước mặt nhà Fidel ở tại Vedado. Fidel đã làm cho họ ngạc nhiên khi họ đang ngủ. Fidel nhận ra trung uý Pedro, anh này đã cứu Fidel khi một số tên trong nhóm tuần tra quân sự sẵn sàng kết liễu cuộc đời của những người bị bắt. Trung úy Pedro nói với binh sĩ: "Thôi, hạ súng xuống! Bởi vì tư tưởng thì không thể giết chết được".

Khi đến Vivac de Santiago và nhà tù ở tỉnh Oriente, lại xảy ra điều tồi tệ, không phải vì bị bắt hay vì cuộc sống ở đấy không đáng giá một xu, mà là bắt đầu biết được sự thật về sự tàn bạo của bọn Batista trong những ngày gần đây. Cả tỉnh Oriente, mọi người sửng sốt, xì xào bàn tán về những tin tức. Trong số các chiến sĩ Moncada, có 90 người chết và 5 người bị thương, theo con số do bản tin cho biết, đó là sự mất cân đối vô lý trong một cuộc chiến tranh: những thương binh bị lôi ra khỏi bệnh viện và bị giết chết, họ bị tiêm dầu long não vào mạch máu, bị treo cổ và bị tra tấn. Một buổi tối, thiếu úy biệt hiệu là "Con hổ", với bàn tay đẫm máu, đã đưa cho Haydée Santamaría xem con mắt của người em là Abe, và sau đó, họ nói rằng Boris Luis người yêu của Haydée đã bị giết. Haydée trả lời: "Anh ấy không chết, chết vì Tổ quốc là sống". Lúc ấy, hiện lên trong trí nhớ của Haydée, như trong một tập ảnh, những bộ mặt của Abel, Mario, Renato, Chenard, José Luis, Juan Manuel, Raúl Gómez và nhiều người khác, đã tăng thêm sự tưởng nhớ trong sáng nhất đối với những con người dũng cảm đã hy sinh vì Tổ quốc. Fidel cảm thấy rằng giờ phút hạnh phúc nhất trong cả đời mình là lúc xông vào cuộc chiến cũng như lúc gay go nhất, khi phải đương đầu với khó khăn to lớn do thất bại, nhưng mọi người vẫn phấn khởi, hăng hái đấu tranh.

Trong bức thư viết cho Ramón, Fidel không nói đến sự chịu đựng, nỗi đau khổ và sự phẫn nộ trong những ngày qua, mà chỉ bày tỏ một phần nào những tình cảm và sự quan tâm của mình đối với bố mẹ và đứa con. Myrta đã ở Birán, còn Fidel thì tưởng tượng Fidelito đang chạy chơi khắp điền trang một cách thơ ngây, hạnh phúc của tuổi thơ. Đối với Ramón, Fidel chỉ yêu cầu gửi đến một ít xì gà, tiền bạc và an ủi ông bà già:

"Cần làm cho bố mẹ thấy rằng nhà tù không phải là nơi đáng sợ và đáng xấu hổ như bố mẹ đã dạy bảo chúng ta. Chỉ khi nào con người vào nhà tù vì những việc làm mất danh dự thì mới như vậy, còn đối với những người có những động cơ cao quý và vĩ đại, thì nhà tù là một nơi rất đáng trân trọng".

Ít lâu sau khi gửi thư ấy, Fidel nhận được bức điện của ông già và cảm thấy được sự ủng hộ và thông cảm của ông đối với các con. Fidel trả lời ngắn ngủi vài dòng vì không thể viết gì hơn: "Chúng con có đủ áo quần, và hoàn toàn khỏe mạnh. Fidel".

Trên thực tế, bức thư trả lời đó không để lộ sự lo lắng mà chỉ thể hiện ước ao làm dịu bớt những nỗi phiền muộn của bố mẹ.

Ngày 17 tháng Chín, Fidel tìm hiểu tin tức qua Ramón: "Bố mẹ yên tâm chứ? Bố mẹ có hiểu rằng em bị tù chỉ vì làm tròn nhiệm vụ của mình? Em không biết số phận cuối cùng của mình sẽ như thế nào, khi phiên toà xét xử kết thúc, nhưng em nghĩ rằng, dù thế nào đi nữa, sau này, chúng ta sẽ có thể gặp nhau (…)".

Điều mà Fidel chưa tưởng tượng được là sự có mặt đầy âu yếm và kiên quyết của Lina trong phiên toà xét xử. Ngày 21 tháng Chín, giữa hai hàng lưỡi lê, chúng dẫn Fidel đi, Lina trông thấy thế chặn lại và ôm chầm lấy Fidel, muốn giữ lại đấy, ghì vào ngực, như lúc Fidel còn bé. Ángel cũng có mặt lúc Lina đang ôm Fidel. Trong phiên toà xét xử lần thứ nhất, Fidel nhớ lại rằng mình bị thẩm vấn trong hai tiếng đồng hồ. Fidel có thể chứng minh bằng những con số cụ thể và tài liệu không chối cãi được số tiền đầu tư và những vũ khí tập hợp được. Không có gì phải giấu giếm, vì trên thực tế, tất cả những thứ đó đã đạt được bằng những sự hy sinh chưa từng có. Fidel nói rõ những ý định về cuộc đấu tranh của các thanh niên bất khuất, có lòng vị tha và nhân đạo trong cuộc chiến.

Kết thúc phần trình bày này, bắt đầu nhiệm vụ quan trọng của Fidel trong phiên toà là:

(...) Bác bỏ hoàn toàn những điều vu cáo hèn nhát và nham hiểm đối với các chiến sĩ cách mạng, đồng thời, vạch rõ những tội ác kinh tởm, không thể chối cãi được mà chúng đã phạm phải đối với tù nhân (...). Ngày 22 tháng Chín, trong phiên toà lần thứ hai, qua lời khai của gần 10 người đã làm sáng tỏ những vụ mưu sát ở Manzanillo. Còn 300 người bị thẩm vấn chưa tố cáo những tên lính chịu trách nhiệm về vụ tàn sát, điều mà chế độ độc tài không cho phép đưa ra trước báo chí, các thẩm phán, đông đảo quần chúng và các nhà lãnh đạo của phái đối lập chống lại sự phục hồi chế độ độc tài và đã từng bị tố cáo là những tác giả tinh thần.

Ngày 23 tháng Chín, Lina tròn 50 tuổi. Trong dịp đặc biệt này,

Fidel không nghi ngờ về diễn biến của những sự kiện sẽ xảy ra trong đêm 25 tháng Chín. Dưới ánh sáng lờ mờ, Fidel viết thư cho bố mẹ:

Nhà tù ở Oriente

Ngày 23 tháng Chín 1953

Kính gửi ông Ángel Castro và bà Lina Ruz ở Birán.

Bố mẹ kính mến!

Mong bố mẹ thứ lỗi cho con vì chậm viết thư cho bố mẹ và cũng đừng nghĩ rằng con đã quên hoặc thiếu sự trìu mến bố mẹ; con nhớ bố mẹ nhiều và chỉ mong sao bố mẹ luôn mạnh khoẻ và không có lý do gì để đau khổ vì chúng con.

Phiên xét xử đã bắt đầu cách đây hai ngày, đang tiến triển rất tốt, con hài lòng về sự tiến triển đó. Tất nhiên, việc họ trừng phạt chúng con là điều không tránh khỏi, nhưng con vốn là người yêu nước và tất cả những người vô tội sẽ phải được tự do; suy cho cùng, không phải các quan toà là những người xét xử người ta, mà là lịch sử, và nếu lịch sử có sai lầm thì tất nhiên, có lợi cho chúng con.

Với tư cách luật sư, con đã tự bào chữa và con sẽ làm điều đó bằng tất cả danh dự của mình.

Trên hết, con muốn bố mẹ đừng nghĩ rằng nhà tù là nơi xấu xa đối với chúng con, không bao giờ là như vậy, nếu ở trong tù để bảo vệ một sự nghiệp chính nghĩa và bày tỏ tình cảm chính đáng của dân tộc. Tất cả những người Cuba vĩ đại đã chịu đựng những gì chúng con giờ đây đang chịu đựng.

Ai đã chịu đựng vì sự nghiệp và làm tròn nhiệm vụ, sẽ luôn luôn sống với tinh thần sung mãn để ngắm nhìn một cách bình tĩnh những điều bất hạnh của số phận; điều này không biểu hiện chỉ trong một ngày và giờ đây, trong những giờ phút đắng cay, thì những gì được ban tặng tốt nhất sẽ dành cho chúng con trong tương lai.

Con hoàn toàn tin tưởng rằng bố mẹ sẽ thông cảm với con và luôn luôn nhớ rằng sự bình tĩnh và nhất trí của bố mẹ mãi mãi là nguồn an ủi tốt nhất cho chúng con.

Đừng phiền hà vì chúng con, đừng mất tiền của và sức lực. Họ đối xử tốt với chúng con, chúng con không cần thứ gì cả...

Từ nay về sau, con sẽ thường xuyên viết thư cho bố mẹ, để biết tin tức về chúng con và không đau khổ nữa.

Fidel, con trai rất yêu và nhớ bố mẹ nhiều".

Từ nhà tù Boniato ở Oriente, Fidel cũng viết thư cho đứa con nuôi Mondy và Ángel Ramón, một trong ba đứa con trai của Ramón, khuyên cháu ngoan và học giỏi.

Cuối thư, còn tạm biệt: "Chú Fidel yêu cháu".

Bị mất liên lạc và bị truy đuổi, có thể ai đó nghĩ rằng một con người sống trong hoàn cảnh như vậy, sẽ gác lại một bên sự nhạy cảm và âu yếm, nhưng dựa vào những tình cảm cao quý nhất.

Fidel đã viết một bức thư gửi cô em gái Augustinita, mà không hề để lộ nỗi thống khổ trong tù.

"Nhà tù ở Oriente. Ngày 25 tháng Chín 1953

Gửi cô Augustina Castro ở Cristo.

Em yêu mến!

Anh đã nhận thư em, nhưng không trả lời được, vì anh rất bận do phiên toà.

Anh rất hài lòng vì thấy em tiến bộ nhiều, viết hay, chữ rất đẹp... và nhất là em không quên anh.

Nhà tù không phải xấu đến thế. Từ xa, Augustinita coi nhà tù rất xấu, nhưng thực ra thì ở đây người ta sống, người ta suy nghĩ, người ta cảm nhận và thương yêu nhau, cho dù các anh còn thiếu nhiều thứ vật chất và thế giới của các anh bị thu nhỏ trong vài thước vuông tường xi măng, nhưng các anh có những cuốn sách tốt, giúp các anh quên đi những đau đớn về thể xác, giúp các anh được học tập thêm và hoàn thiện mình. Nếu biết tranh thủ làm việc có ích thì không để mất thời gian. Nhiều người rong chơi trên đường phố đã làm mất thời gian và để hoang phí sự tự do mà không có lợi gì cho họ.

Cho anh biết về việc học tập của em, môn nào em thích nhất và đứng thứ mấy trong lớp. Anh được biết em rất chăm chỉ học tập có đúng không? Em làm tất cả điều em có thể chứ? Nhiệm vụ của tất cả sinh viên là khao khát đứng ở hàng đầu: tất nhiên ai có nhiều ý chí và kiên trì, sẽ đạt được; nhưng không nên chỉ bằng lòng với việc đứng đầu trong học tập, mà còn cả trong cách đối xử, tính gương mẫu, tình đồng chí, tình bạn và sự thông cảm với người khác. Đối với thầy giáo, phải kính trọng họ, đối với đồng chí, phải hiểu về họ. Nhiều khi, chúng ta nghĩ xấu về những người mà chúng ta thực sự không hiểu họ. Biết bao lần chúng ta làm cho người khác bất hạnh vì lý do đó!

Những năm tháng ở trường trung học là hạnh phúc nhất: điều này đã được những người lớn tuổi nhắc tới luôn, nhưng chúng ta không hiểu được. Không có niềm hạnh phúc nào to lớn hơn là bài học được tiếp thu tốt. Khi chúng ta khôn lớn và va chạm trong cuộc sống, chúng ta mới nhận thức được lợi ích của việc học tập và chúng ta luôn nuối tiếc vì đã để mất nhiều thời gian. Thanh niên là tuổi rất quý cho việc học nghề: tất cả đều gây ấn tượng cho chúng ta, tất cả đều đọng lại trong trí nhớ của chúng ta, đó là tuổi của những ước mơ sẽ trở thành hiện thực, nếu chúng ta biết cố gắng rèn luyện.

Trường trung học của em thật tuyệt vời, anh biết rằng em rất yêu nó và mỗi ngày một yêu nó hơn. Những phương pháp truyền thống về giáo dục vì ý nghĩa thực tiễn và vì sự quan tâm lâu dài đến sự phát triển toàn diện nhân cách của học sinh và từ đó, thực sự trở thành nơi rèn luyện tính cách cho họ. Em nói cho anh biết, em hiểu điều đó như thế nào? Đơn giản là vì trong nền giáo dục, có nhiều hệ thống giảng dạy, nhiều điểm chủ yếu để nói lên điều đó như vậy. Nếu chúng ta biết hướng đi thì không cần phải lên con tàu mới biết được cái đích của nó. Hơn nữa, anh nhớ lại điều đó, từ lúc anh còn là sinh viên: những học sinh của trường dòng Cristo rất nổi tiếng và rất nhiều người mà anh quen biết đã chứng thực ý kiến tốt đó.

Augustina, em đừng bao giờ buồn vì các anh của em đang bị tù. Em hãy suy nghĩ đến lịch sử Tổ quốc chúng ta mà em đã học, rồi em sẽ hiểu được ý nghĩa về sự hy sinh của các anh.

Hôm nay, anh không viết gì thêm cho em, mong em trả lời sớm. Gửi em một cái hôn trìu mến của người anh rất yêu em.

Fidel".

Tối hôm đó, đêm trước của phiên họp thứ ba của phiên toà, xuất hiện hai bác sĩ của nhà tù đến xà lim Fidel. Ý đồ của việc đi thăm bất ngờ này đã bị Fidel tố cáo mấy tuần lễ sau đó, trong bản tự bào chữa của mình.

(...) "Chúng tôi đến để bày tỏ lời cám ơn ông", họ nói như vậy. "Ai đã quan tâm nhiều như vậy đến sức khoẻ của tôi", tôi đã hỏi họ điều đó. Thực sự, từ lúc nhìn thấy họ, tôi đã hiểu ý đồ rồi. Họ không thể là những người hào hiệp và giải thích sự thật cho tôi: ngay trong buổi chiều hôm đó, đại tá Chaviano đã có mặt ở nhà tù và nói rằng: tại phiên toà, tôi "đã gây một tổn thương ghê gớm đến chính phủ", nên họ phải ký một giấy chứng nhận để xác minh rằng Fidel bị ốm, nên không thể tiếp tục tham dự các phiên họp. Các bác sĩ còn bày tỏ với tôi rằng, về phần mình, họ sẵn sàng từ bỏ chức vụ của họ, và sẽ bị truy nã. Họ nêu vấn đề đó với tôi để tôi quyết định. Đối với tôi, thật là gay go để yêu cầu những con người ấy phải hy sinh mà không có sự cân nhắc, nhưng cũng không thể tán thành về bất cứ mặt nào, để họ thực hiện những ý đồ như vậy. Để tự lương tâm họ giải quyết, tôi chỉ trả lời cho họ rằng: "Các ông biết nhiệm vụ của các ông phải làm gì, còn tôi biết rõ nhiệm vụ của tôi".

Sau đó, họ ký vào giấy chứng nhận, rồi rút lui, tôi biết rằng họ làm như vậy vì họ tin chắc rằng đó là cách duy nhất cứu tôi trong cơn nguy hiểm tột độ. Tôi không hứa sẽ giữ im lặng về cuộc đối thoại này, mà chỉ chịu trách nhiệm về sự thật, trong trường hợp này, nếu nói ra sự thật thì có thể phương hại đến lợi ích vật chất của các nhà chuyên nghiệp tốt bụng này, thà tôi để cho họ giữ được trong sạch vinh dự của họ thì giá trị hơn nhiều. Ngay tối hôm đó, tôi viết thư cho toà án (...).

Kính gửi Tòa án khẩn cấp

Tôi là Fidel Castro Ruz, luật sư đứng ra tự bào chữa cho vụ kiện số 37, năm nay, xin kính trình trước phiên toà sự việc sau đây:

1. Đó là việc ngăn cản bằng mọi giá sự có mặt của tôi trước phiên toà hiện tại, nhằm không huỷ bỏ những điều giả dối kỳ quặc đã thêu dệt xung quanh sự việc ngày 26 tháng 7 và nhằm che giấu những tội ác khủng khiếp đã gây nên trong ngày hôm ấy đối với các tù nhân, đó là vụ tàn sát kinh khủng trong lịch sử Cuba.

Với lý do đó, ngày hôm nay, người ta thông báo là tôi bị ốm, nên không đến dự phiên toà, nhưng sự thật là tôi vẫn khoẻ mạnh hoàn toàn, không ốm đau gì cả, họ làm chuyện lạ lùng như vậy để bêu xấu Toà án.

2. Mặc dù Toà án đã nhiều lần thông báo và lần thông báo cuối cùng đã nhắc các chức trách của nhà tù phải chấm dứt việc cắt liên lạc với chúng tôi, vì đó là điều phi pháp và phạm tội. Tôi hoàn toàn bị mất liên lạc và trong 57 ngày ở trong tù, không được ra ngoài tắm nắng, không được nói chuyện với ai và không được gặp gỡ gia đình.

3. Tôi đã biết được một cách chắc chắn rằng đang có âm mưu thủ tiêu tôi, với cớ bỏ trốn hoặc bất cứ việc gì tương tự, vì lẽ đó, họ đang vạch ra một loạt kế hoạch và xử vắng mặt, để tạo điều kiện cho việc kết thúc các sự việc. Tôi đã tố cáo nhiều lần việc đó. Vẫn là những lý do mà tôi đã trình bày ở phần 1 của tờ trình này. Mối nguy hiểm tương tự đối với cuộc sống của các tù nhân khác, trong đó, có các cô gái là nhân chứng đặc biệt của vụ thảm sát ngày 26.

4. Tôi đề nghị, tại cuộc họp phiên toà này, làm thủ tục ngay để thừa nhận tôi như một bác sĩ có uy tín và có thẩm quyền như người đứng đầu Đoàn bác sĩ.

(...) Đó là bức thư, như Toà án đã biết, do tiến sĩ Melba Hernández đưa ra trong buổi thứ ba của phiên toà xét xử không ghi thành văn bản ngày 26 tháng Chín. Tôi đã chuyển được bức thư đó cho Melba, bất chấp sự canh gác cẩn mật đối với tôi. Vì vậy, nhân có bức thư nói trên, họ trả thù ngay: cắt đứt sự liên hệ giữa tôi với tiến sĩ Melba, như trước đây họ đã từng làm, rồi đẩy tôi đến một nơi biệt lập của nhà tù. Từ đấy, tất cả bị cáo đều bị kiểm soát tỉ mỉ, từ chân đến đầu, trước khi đi đến phiên toà xét xử.

Ngày 27, các bác sĩ nước ngoài đến và xác nhận rằng, quả nhiên, tôi hoàn toàn khoẻ mạnh. Tuy nhiên, mặc dù Toà án đã nhiều lần ra lệnh, họ không đưa tôi đến bất cứ buổi họp nào của phiên toà xét xử. Thêm vào đó, họ bố trí những người lạ mặt đến đưa ra hàng trăm những lời đả kích giả định nói rằng nào là tôi đã được giải thoát khỏi nhà tù, bị xử vắng mặt một cách ngây ngô, để thủ tiêu tôi với cớ là tôi vượt ngục. Những âm mưu này bị thất bại bởi sự tố cáo kịp thời của những người bạn có ý thức cảnh giác, phát hiện sự giả dối của giấy chứng nhận bác sĩ, họ không còn cách nào khác để ngăn chặn sự có mặt của tôi ở phiên toà, đó là sự thiếu tôn trọng trắng trợn và trơ trẽn (...).

Thưa các ngài thẩm phán, họ đang tạo ra trường hợp khác thường: một chế độ hoảng sợ trong việc đưa bị cáo ra trước toà án, một chế độ khủng bố và gây đổ máu mà lại hốt hoảng trước niềm tin về tinh thần của một người tay không, bị tước vũ khí, bị cắt liên lạc và bị vu khống. Hơn nữa, sau khi tước bỏ mọi thứ của tôi, cuối cùng, họ còn huỷ bỏ phiên toà xét xử, trong đó tôi là bị cáo chính. Nên nhớ rằng những điều ấy đã diễn ra trong lúc họ đình chỉ sự bảo đảm an toàn thực thi luật trật tự công cộng và kiểm duyệt Đài phát thanh và Báo chí đang có hiệu lực mạnh mẽ. Không biết bao nhiêu tội ác mà chế độ này phạm phải, một khi hoảng sợ tiếng nói của một bị cáo?

Cuối cùng, phiên toà xét xử đã tiến hành ngày 16 tháng 10 ở Hội trường của các nữ y tá của Bệnh viện Trung ương Saturnino Lora.

(Còn nữa)

Tòa soạn

Bình luận bài viết

Bình luận

BÁO HÀ NAM ĐIỆN TỬ

Giấy phép xuất bản số 68/GP-BTTTT do Bộ Thông tin - Truyền thông cấp ngày 16/2/2017

Địa chỉ: Đình Tràng, phường Lam Hạ, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam

Tổng Biên tập: Nguyễn Duy Tuấn

Điện thoại: (0226) 3852.773 - 3853.342 | Fax: (0226)3853.342

Email: baohanam.dientu@gmail.com

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Nha khoa Daisy